Trải Nghiệm Bất Lợi Thời Thơ Ấu (ACEs) : Hiểu rõ về tác động của ACEs

Trải Nghiệm Bất Lợi Thời Thơ Ấu (ACEs) :

Hiểu rõ về tác động của ACEs

Tác giả:  Keryn O’Neill MA, PGCertEdPsych, Knowledge Manager

Biên tâp: Hoàng Nguyễn – Hiệu đính: Lyn

Link: https://brainwave.org.nz/article/adverse-childhood-experiences-understanding-their-effects/   

Vào những năm 1990, một nghiên cứu lớn ở Hoa Kỳ phát hiện ra sự liên hệ giữa ACEs và những hệ quả không tốt cho sức khỏe thể chất, tinh thần và cảm xúc khi trưởng thành.

Bài viết này khám phá một số phát hiện quan trọng từ các nghiên cứu về Trải nghiệm bất lợi thời thơ ấu (ACE), kết hợp với các nghiên cứu khác về tác động tiềm ẩn của nghịch cảnh đối với tamariki (trẻ em) và rangatahi (thế hệ trẻ). Nó dành cho những người làm việc với tamariki và rangatahi, hoặc whānau (gia đình)  của họ, để hỗ trợ hiểu biết về những tác động có thể có của nghịch cảnh đối với những người họ hỗ trợ.

Bất lợi là gì?

Bất lợi được hiểu là thuật ngữ chung ám chỉ một loạt các trải nghiệm nguy hiểm hoặc đang diễn ra và có khả năng thách thức sự thích nghi của trẻ. Những định nghĩa trên thực tế rất đa dạng.

Tuy nhiên, một số những điểm chính được nêu ra dưới đây:

  • Bất lợi có thể đề cập đến một sự kiện nghiêm trọng riêng lẻ và/hoặc một loạt các sự kiện bất lợi kéo dài theo thời gian.
  • Trải nghiệm về sự bất lợi là những trải nghiệm “gắn liền với sự gián đoạn, nguy hiểm và căng thẳng, đi chệch khỏi môi trường chuẩn mực và được mong đợi”, điều đó đòi hỏi sự thích nghi lớn đối với hầu hết các trẻ em.
  • Sự sai lệch này có thể có hai dạng, cả “thiếu các đầu vào dự kiến” (ví dụ: bỏ bê) và “sự hiện diện của các đầu vào không mong đợi” (ví dụ: lạm dụng).
  • Bất lợi có thể là tác động tới cả trực tiếp và gián tiếp. Một số kiểu bất lợi ảnh hưởng trực tiếp đến trẻ em (ví dụ: lạm dụng thể chất). Các dạng nghịch cảnh khác ảnh hưởng đến trẻ em một cách gián tiếp hơn, thông qua tác động đến môi trường sống của các em, (ví dụ: xung đột giữa cha mẹ).
  • Bất lợi ở đây không bao gồm mọi trải nghiệm căng thẳng mà tamariki hoặc rangatahi có thể gặp phải. Ví dụ, mặc dù việc chuyển đến một trường học mới có thể gây căng thẳng nhưng một số thay đổi như vậy lại là một phần điển hình của quá trình trưởng thành.
  • Một số định nghĩa chỉ rõ rằng các bất lợi vượt xa những trải nghiệm thường thấy ở tuổi thơ. Tuy nhiên, những người khác nhấn mạnh rằng một số loại nghịch cảnh khá phổ biến. Ví dụ, các nghiên cứu của ACE coi việc cha mẹ ly hôn (một hiện tượng tương đối phổ biến) là một trong những loại nghịch cảnh của họ. (Vì vậy, chỉ vì điều gì đó tương đối phổ biến không có nghĩa là nó không có tác động tiêu cực.)

Nhìn chung, thuật ngữ bất lợi đề cập đến những trải nghiệm hoặc sự kiện mà một đứa trẻ đã trải qua; không ảnh hưởng đến những tác động mà những trải nghiệm này có thể gây ra đối với một đứa trẻ. Như chúng ta sẽ thấy, việc có những trải nghiệm tương tự có thể tác động đến các cá nhân rất khác nhau và cũng phụ thuộc vào các yếu tố khác trong cuộc sống của họ.

Điều quan trọng cần lưu ý là mặc dù “những sự kiện thường được mong đợi” có thể được dự kiến từ góc độ của người trưởng thành, nhưng chúng vẫn có thể rất bất ngờ, căng thẳng và có khả năng gây chấn thương cho một đứa trẻ (ví dụ: sự ra đi của ông bà). Nói cách khác, sự phát triển của trẻ em có thể bị ảnh hưởng bởi những trải nghiệm của chúng, cho dù những trải nghiệm này có phù hợp với định nghĩa về bất lợi hay không.

Các nghiên cứu về ACE

Các nghiên cứu về Trải nghiệm bất lợi thời thơ ấu (ACE) thường được trích dẫn đã xem xét một loạt các yếu tố gây căng thẳng thời thơ ấu và mối quan hệ của chúng với nhiều vấn đề sức khỏe và xã hội khác nhau trong suốt cuộc đời. (Anda và cộng sự, 2010).  Các nghiên cứu được thực hiện với các thành viên của Cơ quan Thẩm định Sức khỏe San Diego của Kaiser Permanente Clinic (nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe đầu tiên) đã hoàn thành các đánh giá y tế tiêu chuẩn vào năm 1995-96. Các thành viên đã được gửi bản khảo sát về các sự kiện thời thơ ấu qua đường bưu điện và kết quả này dựa trên hơn 9500 câu trả lời.

Các nghiên cứu ban đầu về ACEs đưa ra bảy nghịch cảnh như sau:

  • Bạo lực về tâm lý, thể chất và xâm hại tình dục.
  • Tác động vật lý tới người mẹ
  • Chung sống với người trong gia đình mà:
    • có người sử dụng chất kích thích
    • Bị tâm thần hoặc có ý nghĩ tự sát; hoặc là
    • Từng bị đi tù

Một số ACE có liên quan trực tiếp tới việc làm đau ở trẻ (ví dụ như bạo hành) trong khi những ACE khác có nhiều các ảnh hưởng gián tiếp hơn (chẳng hạn như: cha mẹ đang ở tù) (Hughes và cộng sự, 2017). Những người tham gia được yêu cầu trả lời một loạt câu hỏi về những trải nghiệm trong 18 năm đầu đời của họ

“Những người tham gia được xác định là đã từng tiếp xúc với một hành vi nếu họ trả lời “có” cho 1 câu hoặc nhiều hơn trong danh mục mục đó.” Hơn một nửa số người tham gia khảo sát cho biết ít nhất một câu và ¼ cho biết có 2 dấu hiệu trở lên. 6.2% cho biết có 4 hoặc nhiều hơn (Điều đáng chú ý là những người được nghiên cứu chủ yếu là người da trắng và thuộc tầng lớp trung lưu) (Felitti và cộng sự, 1998)

Một làn sóng thứ hai của nghiên cứu được triển khai giữa năm 1997 được thêm vào một số câu hỏi liên quan tới:

  • Sự bỏ mặc về cảm xúc và tiếp xúc 
  • Có bố mẹ chia xa/ly dị

Có hơn 8000 người trả lời trong nghiên cứu thứ hai này. Hai phần ba số người được khảo sát cho biết có ít nhất một ACE.

Theo cách này, thuật ngữ ‘ACE’ đại diện cho thước đo tổng hợp về nghịch cảnh thời thơ ấu.’Điểm ACE’ đề cập đến số loại nghịch cảnh mà một cá nhân đã trải qua trước 18 tuổi. Điểm ACE dao động từ 0, khi chưa từng trải qua nghịch cảnh nào được nghiên cứu, đến 7, (trong đợt dữ liệu đầu tiên) hoặc 10 (trong đợt nghiên cứu thứ hai).

Điểm ACE phản ánh số lượng các loại nghịch cảnh khác nhau mà một cá nhân đã trải qua, nhưng không cho biết tần suất hoặc mức độ nghiêm trọng của những trải nghiệm đó cũng như ảnh hưởng của chúng đối với đứa trẻ. Ví dụ: một người sẽ cho điểm “một lần” vì lạm dụng thể chất, cho dù đây là hành vi ngược đãi thể chất nghiêm trọng hay không và kéo dài suốt thời thơ ấu của họ, hoặc ít nghiêm trọng hơn nhiều và xảy ra chỉ một lần.

Điểm mạnh của nghiên cứu bao gồm mẫu lớn và khả năng truy cập tốt vào dữ liệu sức khỏe. Điều này cho phép chúng ta thấy được mối liên hệ giữa những trải nghiệm thời thơ ấu và dữ liệu khách quan về chẩn đoán và điều trị đối với nhiều kết quả sức khỏe.

Sự Phổ Biến

ACE được cho là tương đối phổ biến. Nghiên cứu của Felitti và cộng sự cho thấy hơn một nửa số người tham gia nghiên cứu đã từng trải qua một hoặc nhiều ACE và ¼ báo cáo cho biết có 2 ACE trở lên. Nghiên cứu tiếp theo, với các mẫu khách thể đa dạng hơn về kinh tế xã hội cho thấy ACE phổ biến hơn với khoảng 75% tiếp xúc ít nhất với 1 trải nghiệm bất lợi. Dữ liệu của New Zealand, từ nghiên cứu của Dunedin cho thấy có khoảng 65% người tham gia tiếp xúc với ít nhất một ACE và với 15% báo cáo có 4 hoặc nhiều hơn một ACE. 

Sự Bất Lợi: Sự Tích Tụ và Liên Kết

Các nghiên cứu về ACE liên tục tìm ra mối quan hệ phản ứng liều lượng giữa điểm ACE và kết quả sức khỏe; nói cách khác, khi điểm ACE, tức là số lượng các trải nghiệm bất lợi tăng lên, khả năng dẫn tới tình trạng sức khỏe kém đi cũng tăng lên. Tác động tích lũy của nhiều ACE lớn hơn tác động của bất kỳ ACE riêng lẻ nào. Nói cách khác, tác động của các bất lợi thường phức tạp. Một số kiểu ACE có mối liên hệ chặt chẽ với các loại khác. Ví dụ như, các hình thức bạo lực khác nhau thường liên quan đến các rối loạn chức năng gia đình, chẳng hạn như bệnh tâm thần của cha mẹ, sử dụng chất kích thích hoặc có liên quan đến hình sự. Điều này làm cho mỗi ACE dần trở nên rất nghiêm trọng vì chúng có khả năng liên quan đến vô số vấn đề. Mặt khác, những bất lợi như cái chết và ly hôn có ít khả năng xảy ra cùng với các ACE khác.

Kết Quả Trên Phạm Vi Rộng

Việc phải đối mặt với nghịch cảnh có thể dẫn tới những ảnh hưởng lâu dài và lan rộng tới nhiều khía cạnh liên quan tới sức khỏe xuyên suốt cuộc đời. ACE có liên quan tới một số “nguyên nhân hàng đầu gây ra gánh nặng bệnh tật trên toàn cầu.” Trong phần sau, chúng ta sẽ cùng nhau khám phá các ví dụ về phạm vi của những ảnh hưởng này; đây không hoàn toàn là một danh sách đầy đủ chi tiết. Điều quan trọng cần lưu ý là phương pháp của các nghiên cứu về ACE và kết quả của sức khỏe, nhưng điều đó không cho phép thiết lập quan hệ hai chiều.

“Những trải nghiệm thời thơ ấu căng thẳng hoặc đau thương như bị lạm dụng, bỏ bê hoặc các hình thức rối loạn chức năng trong gia đình là con đường phổ biến dẫn đến những suy giảm về mặt xã hội, cảm xúc và nhận thức, dẫn đến tăng nguy cơ thực hiện các hành vi không lành mạnh, bạo lực hoặc tái phát các hành vi làm hại người khác, bệnh tật, khuyết tật và tử vong sớm.” (Anda và cộng sự, 2010).

Hành vi gây nguy hại cho sức khỏe

Một phân tích của nhiều nghiên cứu cho thấy những người có điểm ACE từ 4 trở lên có thói quen hút thuốc hoặc uống rượu cao gấp 2 lần và có thói quen uống rượu cao gấp 6 lần so với những người không có ACE. (Hughes và cộng sự, 2017) Có ý kiến cho rằng các hành vi nguy hiểm như hút thuốc, ăn mất kiểm soát và lười vận động có thể là cách để con người đối phó với những căng thẳng mà họ đã trải qua. (Dong, Giles và cộng sự, 2014) 

Sử dụng dữ liệu thu được từ hơn 5000 phụ nữ, các nhà nghiên cứu đã nghiên cứu các tác động của những bất lợi ban đầu với các hành vi nguy cơ tình dục cao ở phụ nữ. Họ phát hiện ra rằng mỗi một kiểu nghịch cảnh đều “có liên quan tới sự gia tăng nguy cơ bắt đầu “quan hệ” sớm, có nhiều bạn tình và nguy cơ nhận thức về bệnh AIDs.” (theo Hillis, Anda, Felitti, & Marchbanks, 2001, p.210). Hơn nữa, khi điểm ACE của phụ nữ tăng lên thì mức độ phổ biến của nguy cơ tình dục cũng tăng theo.

Sức khỏe vật lý

Có thể cho rằng, phát hiện nổi bật nhất từ các nghiên cứu đầu tiên về ACE và nhiều nghiên cứu khác kể từ đó là mối liên hệ giữa việc trải qua nghịch cảnh thời thơ ấu và nguy cơ gia tăng đối với một loạt các vấn đề về sức khỏe ở tuổi trưởng thành. Điều này thật đáng báo động vì trong khi hầu hết mọi người đều hiểu nguy cơ tổn hại lâu dài về mặt cảm xúc và xã hội là do nghịch cảnh thời thơ ấu gây ra, thì rất ít người nhận ra mối liên hệ chặt chẽ giữa tuổi thơ khó khăn và sức khỏe về mặt thể chất kém.

Mối liên hệ giữa liều lượng và phản ứng đã được tìm thấy giữa điểm ACE và nguy cơ mắc nhiều vấn đề sức khỏe. Chúng bao gồm ung thư, gãy xương, bệnh về gan, bệnh tim do thiếu máu cục bộ, đột quỵ và phổi mãn tính. Khi điểm ACE tăng thì nguy cơ dẫn tới tình trạng sức khỏe kém cũng tăng theo. (31) Hai ví dụ về các vấn đề sức khỏe này, cụ thể là rối loạn miễn dịch tự động và bệnh tim thiếu máu cục bộ, sẽ được đề cập chi tiết hơn ở dưới đây.

Điểm ACE được nghiên cứu có liên hệ tới 21 rối loạn tự miễn dịch bao gồm bệnh celiac, viêm khớp dạng thấp, đa xơ cứng, đái tháo đường phụ thuộc insulin và bệnh đường ruột kích thích. (32) Những tình trạng này ảnh hưởng nhiều hơn tới phụ nữ, với khoảng 80% số người bị ảnh hưởng là phụ nữ. (33) Trong số những phụ nữ được nghiên cứu, mỗi lần điểm ACE của họ tăng đều liên quan đến việc tăng 20% khả năng nhập viện vì rối loạn miễn dịch tự động (34).

Sử dụng điểm ACE, các nhà nghiên cứu thấy rằng nguy cơ mắc bệnh tim thiếu máu cục bộ (IHD) tăng lên đáng kể ở những người tiếp xúc với bất kỳ cá nhân trải nghiệm ACE nào, ngoại trừ sự bất hòa trong hôn nhân (35). Hơn nữa, có một mối quan hệ được phân cấp theo đó những người có 7 ACE trở lên có nguy cơ mắc IHD cao hơn gấp 3 lần so với những người không có ACE.

Sức khỏe tâm thần

Trên toàn thế giới, “gánh nặng về bệnh tật liên quan tới bệnh tâm thần” đang gia tăng và thời thơ ấu là thời điểm quan trọng trong việc là tiền đề cho sức khỏe tâm thần sau này. (36)

Ví dụ, các nghiên cứu về ACE đã chỉ ra rằng những bất lợi thời thơ ấu có liên hệ tới sự gia tăng gặp ảo giác. (37). Phát hiện này đứng độc lập với bất kỳ lịch sử lạm dụng chất gây nghiện nào. Những người có điểm ACE từ 7 trở lên có nguy cơ gặp ảo giác cao gấp 5 lần so với những người không có điểm ACE nào. Ngoài ra, những người có 4 ACE trở lên có nguy cơ trầm cảm, lạm dụng chất kích thích và nghiện rượu cao hơn. (38)

Đồng bộ hóa với điều này, các nghiên cứu sâu hơn đã phát hiện ra rằng việc tiếp xúc với ACE làm tăng khả năng mắc hầu hết các loại bệnh tâm thần.

Rối loạn cảm xúc, lo âu, lệ thuộc chất kích thích, loạn thần, rối loạn nhân cách, rối loạn hành vi và hành vi tự tử đều có khả năng xảy ra ở những người tiếp xúc với ACE. (39) Tác động của ACE đối với sức khỏe tâm thần có thể được nhìn thấy trong suốt cuộc đời. (40) Điều này có nghĩa rằng những người tiếp xúc với ACE có nguy cơ mắc các bệnh tâm thần ít hơn nhiều thập kỷ sau đó, cho thấy rằng “tác động tiêu cực của những bất lợi thời thơ ấu không giảm đi đáng kể trong cuộc sống sau này.” (41)

Cuộc khảo sát về sức khỏe tâm thần trên thế giới của WHO với hơn 51000 người trưởng thành từ 21 quốc gia (42) cho thấy những trải nghiệm bất lợi thời thơ ấy có liên quan chặt chẽ đến tất cả 20 chứng rối loạn được nghiên cứu. Phát hiện của họ cho thấy rằng việc loại bỏ nghịch cảnh thời thơ ấu sẽ giúp giảm gần 30% các chứng rối loạn tâm thần. (43)

Công trình do Teicher và các cộng sự thực hiện cũng phát hiện ra rằng trẻ em bị ngược đãi có nhiều khả năng mắc các bệnh tâm thần hơn. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu còn phát hiện ra rằng những đứa trẻ bị ngược đãi có khả năng mắc các bệnh tâm thần ở độ tuổi trẻ hơn, với độ nghiêm trọng cao hơn và phản ứng kém tích cực hơn với việc trị liệu (44). Bệnh đi kèm, sự hiện diện của hai hoặc nhiều tình trạng bệnh ở cùng một người cũng nhiều hơn thường gặp ở những người bị ngược đãi.

Nghiên cứu ban đầu về ACE cho thấy có một mối liên hệ chặt chẽ giữa điểm ACE và nỗ lực tự sát, với nguy cơ tăng từ 2 tới 5 lần. (45) ACEs được phát hiện là nguyên nhân gây ra khoảng ⅔ ý định tự sát ở người trưởng thành được nghiên cứu, điều này cũng cho thấy tác động của những trải nghiệm thời thơ ấu này trong thời gian dài. (46) Các nghiên cứu gần đây càng củng cố thêm sức thuyết phục cho mối liên hệ giữa ACE và nỗ lực tự sát. (47)

Hậu quả của các trải nghiệm bất lợi thời thơ ấu.

Các nghiên cứu ban đầu của ACE nhấn mạnh mỗi liên hệ giữa nghịch cảnh thời thơ ấu và kết quả sức khỏe khi trưởng thành, bởi độ tuổi trung bình của những người tham gia nghiên cứu là 57 tuổi. (48) Tuy nhiên, mặc dù những tác động này có thể được thấy rõ ở lứa tuổi trưởng thành, nhưng điều này không có nghĩa là những tác động này sẽ xảy ra sau đó. Các nghiên cứu khác chỉ ra rằng tác động của nghịch cảnh có thể được nhìn thấy và trải nghiệm trong thời gian thời thơ ấu, thậm chí đôi khi còn khá sớm, Sức khỏe, học tập và hành vi đều có thể bị ảnh hưởng. Một số những ví dụ này được miêu tả dưới đây:

Các mối lo ngại về sức khỏe thể chất liên quan đến ACE bao gồm hen suyễn, đau đầu, tình trạng tiêu hóa và sức khỏe trẻ em kém hơn. (49) Điểm ACE từ 4 trở lên có liên quan đến tình trạng thừa cân và béo phì. (50)

ACE có liên quan đến tình trạng có mặt trên lớp học thấp hơn/nghỉ học nhiều hơn, kỹ năng học tập kém hơn, rối loạn học tập và thành tích học tập thấp hơn. (51) Ví dụ, khi nói đến tình trạng vắng mặt, những người có 4 điểm ACE trở lên có nguy cơ bỏ lỡ buổi học hơn 20 lần cao hơn khoảng 6 lần. (52)

Hành vi và sức khỏe tinh thần của trẻ có thể bị ảnh hưởng tiêu cực khi trải qua những trải nghiệm bất lợi. Các ví dụ bao gồm sự gia tăng hành vi chống đối xã hội và bạo lực, các vấn đề về hành vi hướng nội và hướng ngoại, sức khỏe tâm thần thời thơ ấu kém hơn ở những trẻ từng trải qua nghịch cảnh. (53) Những người có điểm ACE từ 4 trở lên có khả năng học tập hoặc hành vi cao hơn 33 lần. rối loạn hơn so với những người không có ACE. (54)

Nghiên cứu của New Zealand, từ nghiên cứu Growing Up in New Zealand (GUiNZ), đã phát hiện thấy mức độ vấn đề về hành vi cao hơn ở trẻ em từ 4,5 tuổi trong số những trẻ gặp phải nghịch cảnh.(55) Ở độ tuổi này, hơn một nửa số trẻ em đã tiếp xúc với ít nhất một ACE . Những người tiếp xúc với ACE cũng thực hiện kém hơn trong các bài kiểm tra cho thấy mức độ sẵn sàng đến trường, bao gồm đếm, nhận dạng các chữ cái và khả năng trì hoãn sự hài lòng, theo kiểu phản ứng với liều lượng. (56)

Yếu tố phòng vệ

Bất chấp những phát hiện cho thấy việc tiếp xúc với ACE làm tăng nguy cơ dẫn đến nhiều hậu quả xấu, một nhóm lớn trẻ em bị phơi nhiễm không có kết quả sức khỏe kém. Điều này là do có nhiều yếu tố có thể bảo vệ bạn khỏi nguy cơ này. (57) Phần sau đây sẽ xem xét một số yếu tố này.

Cùng với việc xem xét nguy cơ gia tăng, nghiên cứu của ACE còn xem xét các điểm mạnh của gia đình và tác dụng bảo vệ tiềm tàng của chúng đối với việc bắt đầu hoạt động tình dục sớm, mang thai ở tuổi vị thành niên và các hậu quả tâm lý xã hội lâu dài của nó ở hơn 4600 phụ nữ. Những điểm mạnh của gia đình bao gồm “sự gần gũi của gia đình, sự hỗ trợ, lòng trung thành, sự bảo vệ, tình yêu, tầm quan trọng và khả năng đáp ứng nhu cầu sức khỏe”. (58)

Mỗi loại sức mạnh gia đình có liên quan đến việc giảm đáng kể từ 30% đến 40% nguy cơ mang thai ở tuổi vị thành niên, và khi số lượng sức mạnh gia đình tăng lên thì nguy cơ mang thai ở tuổi vị thành niên càng giảm. (59) Những sức mạnh gia đình này được phát hiện là có tác dụng đặc biệt bảo vệ chống lại khỏi việc  bắt đầu hoạt động tình dục đối với những phụ nữ từng bị lạm dụng hoặc rối loạn chức năng gia đình. Những người có sức mạnh gia đình cao có tỷ lệ mang thai ở tuổi vị thành niên chỉ bằng một nửa so với những phụ nữ có một hoặc không có sức mạnh gia đình. (60)

Ý thức kết nối với văn hóa, truyền thống hoặc tín ngưỡng của một người được cho là có tác dụng bảo vệ trước những rủi ro do nghịch cảnh gây ra. (61) Ví dụ, quan điểm tích cực về bản sắc dân tộc của họ và khả năng tiếp cận nhiều hơn với truyền thống văn hóa Māori có liên quan đến khả năng phục hồi và phát triển tốt hơn trước những kết quả kém ở người Maori. (62)

Một nghiên cứu gần đây cho thấy những trải nghiệm tích cực thời thơ ấu (PCE) có mối quan hệ liều lượng đáp ứng với sức khỏe tâm thần của người trưởng thành, tương tự như mối quan hệ của ACE. Nói cách khác, những người có nhiều trải nghiệm tích cực được nghiên cứu có nhiều khả năng có được sức khỏe tâm thần tốt ở tuổi trưởng thành, bất chấp sự hiện diện của ACE. (63) PCE được nghiên cứu là: có thể nói chuyện với gia đình về cảm xúc của họ, cảm thấy rằng gia đình luôn sát cánh bên bạn trong những thời điểm khó khăn, cảm thấy an toàn và được bảo vệ bởi một người lớn trong nhà, có ít nhất 2 người lớn không phải là cha mẹ thực sự quan tâm đến chúng, cảm thấy được bạn bè hỗ trợ, cảm giác thân thuộc ở trường trung học và thích tham gia vào các hoạt động truyền thống cộng đồng. (64)

Có nhiều tài liệu ủng hộ vai trò mạnh mẽ của việc chăm sóc nuôi dưỡng, có thể bảo vệ chống lại các tác động sinh lý của nghịch cảnh đối với phản ứng cortisol, viêm nhiễm và lão hóa tế bào. (65)

Gần hơn, phân tích dữ liệu của Growing Up in New Zealand đã khám phá các yếu tố bảo vệ của những đứa trẻ có nguy cơ có điểm ACE cao nhưng chưa gặp phải ACE nào trước 4,5 tuổi. Các yếu tố bảo vệ bao gồm mối quan hệ mẹ con, tài chính gia đình, sức khỏe của cha mẹ, các yếu tố cộng đồng/khu vực lân cận và mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Đặc biệt lưu ý là phát hiện của họ về tầm quan trọng của mối quan hệ mẹ con. (66)

Như đã chỉ ra, “điều quan trọng là bên cạnh cuộc thảo luận công khai về ACE, ít nhất cũng cần nhấn mạnh nhiều đến khả năng phục hồi và tiềm năng thay đổi theo hướng tích cực hơn.” (67) Có rất nhiều “khả năng phục hồi và khả năng phục hồi ở trẻ em bị phơi nhiễm”. trước những hình thức nghịch cảnh khác nhau.” (68)

Nghèo đói và phân biệt chủng tộc có tác động thế nào?

ACE tương đối phổ biến và có thể xảy ra ở các nhóm kinh tế xã hội. Tuy nhiên, một số nhóm dân cư, bao gồm cả những người lớn lên trong nghèo đói, có nhiều khả năng gặp phải nhiều nghịch cảnh hơn những người có gia đình có đủ nguồn lực. Các yếu tố xã hội và cấu trúc ảnh hưởng đến việc tiếp xúc với ACE, từ đó làm tăng thêm “sự bất bình đẳng về kết quả kinh tế, xã hội và sức khỏe giữa các thế hệ.” (70)

Một số nghiên cứu xem nghèo đói là một bất lợi, (71) trong khi những nghiên cứu khác coi đó là một yếu tố rủi ro hoặc động lực vĩ mô gây ra nhiều nghịch cảnh ở trẻ em. (72) Do nghèo đói có mối liên hệ với việc tăng phơi nhiễm ACE, giảm nghèo có khả năng làm giảm tỷ lệ mắc ACE. (73)

\Mối liên hệ giữa thu nhập gia đình và ACE cũng đã được tìm thấy ở Aotearoa. Ví dụ: dữ liệu GUiNZ chỉ ra rằng tamariki có thu nhập gia đình từ 20.000 USD trở xuống có số ACES cao hơn gấp 3 lần so với trẻ em có thu nhập gia đình vượt quá 150.000 USD. (74)

Đã có một số chỉ trích về các sáng kiến nâng cao nhận thức về ACE tập trung hạn hẹp vào các yếu tố ở cấp độ cá nhân hoặc cấp độ whānau và không giải quyết các yếu tố ở cấp độ xã hội. (75) Giảm nghèo là một yếu tố quan trọng trong việc giảm phơi nhiễm với ACE, với các biện pháp can thiệp như bổ sung thu nhập và nhà ở cho thấy hiệu quả trong việc giảm ACE. (76)

Bất chấp sự phong phú của văn hóa bản địa, các thành viên của cộng đồng bản địa có nhiều khả năng sống trong nghèo đói hơn. (77)

Nghèo đói thường gắn liền với nạn phân biệt chủng tộc và những tác động đang diễn ra của quá trình thuộc địa hóa ở Aotearoa. Những vấn đề này bao gồm mất đất đai, kết nối ngôn ngữ và văn hóa, không được tính đầy đủ trong danh sách kiểm tra của ACE. (78)

Trong khi các nghiên cứu của ACE coi việc cha mẹ bỏ tù là một dấu hiệu của rối loạn chức năng gia đình, thì sự phân biệt chủng tộc ở cấp độ xã hội cũng đóng một vai trò trong mức độ bỏ tù rất khác nhau giữa những người thuộc các dân tộc khác nhau. (79)

Ngày càng có nhiều lời kêu gọi nghiên cứu để xem xét tác động của các hệ thống chính trị xã hội và tác động của chúng đối với gia đình. 80

Kết luận

Các nghiên cứu của ACE đã nâng cao nhận thức về “tác động bất lợi của ‘nghịch cảnh’ đối với sức khỏe thể chất, sức khỏe tâm thần, hoạt động xã hội, hành vi nguy cơ sức khỏe và tuổi thọ.” (81) Những phát hiện này đã được nhân rộng ở nhiều quốc gia khác nhau. (82)

Những phát hiện chính từ các nghiên cứu của ACE bao gồm:

  • Phơi nhiễm ACE là phổ biến, với việc tiếp xúc với một hoặc nhiều ACE thường gặp
  • Nhiều ACE được kết nối với nhau; việc tiếp xúc với một ACE cũng thường liên quan đến việc tiếp xúc với những người khác
  • ACE hoạt động tích lũy; nói cách khác, khi số lượng ACE tăng lên thì khả năng xảy ra tình trạng sức khỏe kém cũng tăng theo.
  • Các tác động có thể rất đa dạng, trên nhiều khía cạnh của sức khỏe thể chất và tinh thần
  • Mối liên hệ giữa nghịch cảnh trong thời thơ ấu có thể được nhìn thấy trong suốt cuộc đời, nhiều thập kỷ sau khi bị phơi nhiễm.

Những điểm khác cần lưu ý:

  • Một hạn chế của các nghiên cứu của ACE là tập trung vào các yếu tố ở cấp độ gia đình mà không xem xét đến các yếu tố kinh tế hoặc xã hội rộng hơn ảnh hưởng đến chúng. Điều quan trọng là phải hiểu tác động có thể có của các yếu tố ở cấp độ gia đình đối với kết quả của trẻ nhưng không ảnh hưởng đến các yếu tố ở cấp độ khác.
  • Những trải nghiệm tích cực, đặc biệt là nuôi dưỡng mối quan hệ với những người trưởng thành tận tâm, hỗ trợ khả năng phục hồi khi đối mặt với nghịch cảnh và giảm nguy cơ dẫn đến kết quả kém (83)
  • “Cần lưu ý rằng các thông điệp từ nghiên cứu của ACE không được truyền đạt theo cách xác định. Điều quan trọng là rủi ro ở cấp độ dân số không ngụ ý rằng một cá nhân sẽ có kết quả tiêu cực trong tương lai” (84)
  • Việc tiếp xúc với ACE, thậm chí nhiều ACE, không “có nghĩa là không thể tránh khỏi những kết quả xấu” (85)
  • Tác động của nghịch cảnh không chỉ được cảm nhận bởi cá nhân bị phơi nhiễm mà cả cộng đồng rộng lớn hơn (86)

Giống như bất kỳ nghiên cứu nào khác, nghiên cứu của ACE không cung cấp tất cả các câu trả lời. Chúng cung cấp một dấu hiệu rõ ràng về những tác động tiềm ẩn lâu dài của nghịch cảnh, củng cố nhu cầu vừa giảm thiểu khả năng tiếp xúc với nghịch cảnh, vừa cung cấp hỗ trợ kịp thời, hiệu quả cho những người bị ảnh hưởng.

Tài liệu tham khảo:

Allen, D., & Abresch, C. (2018). Confronting adversity: MCH responds to ACEs. Maternal and Child Health Journal, 22(3), 283-287.

Anda, R. F., Butchart, A., Felitti, V. J., & Brown, D. W. (2010). Building a framework for global surveillance of the public health implications of Adverse Childhood Experiences. American Journal of Preventive Medicine, 39(1), 93-98.

Bellis, M. A., Hughes, K., Ford, K., Hardcastle, K. A., Sharp, C. A., Wood, S., . . . Davies, A. (2018). Adverse childhood experiences and sources of childhood resilience: a retrospective study of their combined relationships with child health and educational attendance. BMC Public Health, 18(1), 792.

Bellis, M. A., Hughes, K., Ford, K., Rodriguez, G. R., Sethi, D., & Passmore, J. (2019). Life course health consequences and associated annual costs of adverse childhood experiences across Europe and North America: a systematic review and meta-analysis. The Lancet Public Health, 4(10), e517-e528.

Berens, A. E., Jensen, S. K. G., & Nelson, C. A. (2017). Biological embedding of childhood adversity: from physiological mechanisms to clinical implications. BMC Medicine, 15(1), 135.

Bethell, C., Jones, J., Gombojav, N., Linkenbach, J., & Sege, R. (2019). Positive Childhood Experiences and adult mental and relational health in a statewide sample: associations across Adverse Childhood Experiences levels. JAMA Pediatrics, 173(11), e193007-e193007.

Burke, N. J., Hellman, J. L., Scott, B. G., Weems, C. F., & Carrion, V. G. (2011). The impact of adverse childhood experiences on an urban pediatric population. Child Abuse & Neglect, 35(6), 408-413.

Choi, N. G., DiNitto, D. M., Marti, C. N., & Segal, S. P. (2017). Adverse childhood experiences and suicide attempts among those with mental and substance use disorders. Child Abuse & Neglect, 69, 252-262.

Dong, M., Anda, R. F., Felitti, V. J., Dube, S. R., Williamson, D. F., Thompson, T. J., . . . Giles, W. H. (2004). The interrelatedness of multiple forms of childhood abuse, neglect, and household dysfunction. Child Abuse & Neglect, 28(7), 771-784.

Dong, M., Anda, R. F., Felitti, V. J., Williamson, D. F., Dube, S. R., Brown, D. W., & Giles, W. H. (2005). Childhood residential mobility and multiple health risks during adolescence and adulthood: The hidden role of adverse childhood experiences. Archives of Pediatrics & Adolescent Medicine, 159(12), 1104-1110.

Dong, M., Giles, W. H., Felitti, V. J., Dube, S. R., Williams, J. E., Chapman, D. P., & Anda, R. F. (2004). Insights into causal pathways for Ischemic Heart Disease. Circulation, 110(13), 1761-1766.

Dube, S. R., Anda, R. F., Felitti, V. J., Chapman, D. P., Williamson, D. F., & Giles, W. H. (2001). Childhood abuse, household dysfunction, and the risk of attempted suicide throughout the life span findings from the adverse childhood experiences study. JAMA, 286(24), 3089-3096.

Dube, S. R., Fairweather, D., Pearson, W. S., Felitti, V. J., Anda, R. F., & Croft, J. B. (2009). Cumulative childhood stress and autoimmune diseases in adults. Psychosomatic Medicine, 71, 243-250.

Felitti, V. J. (2009). Adverse childhood experiences and adult health. Academic Pediatrics, 9(3), 131-132.

Felitti, V. J., Anda, R. F., Nordenberg, D., Williamson , D. F., Spitz, A. M., Edwards, V., . . . Marks, J. S. (1998). Relationship of childhood abuse and household dysfunction to many of the leading causes of death in adults: The Adverse Childhood Experiences (ACE) Study. American Journal of Preventive Medicine, 14(4), 245-258.

Hambrick, E. P., Brawner, T. W., Perry, B. D., Brandt, K., Hofmeister, C., & Collins, J. O. (2019). Beyond the ACE score: Examining relationships between timing of developmental adversity, relational health and developmental outcomes in children. Archives of Psychiatric Nursing, 33(3), 238-247.

Hillis, S. D., Anda, R. F., Dube, S. R., Felitti, V. J., Marchbanks, P. A., Macaluso, M., & Marks, J. S. (2010). The protective effect of family strengths in childhood against adolescent pregnancy and its long-term psychosocial consequences. The Permanente Journal, 14(3), 18-27.

Hillis, S. D., Anda, R. F., Felitti, V. J., & Marchbanks, P. A. (2001). Adverse childhood experiences and sexual risk behaviors in women: A retrospective cohort study. Family Planning Perspectives, 33(5), 206-211.

Houkamau, C. A., & Sibley, C. G. (2011). Māori cultural efficacy and subjective wellbeing: A psychological model and research agenda. Social Indicators Research, 103(3), 379-398.

Hughes, K., Bellis, M. A., Hardcastle, K. A., Sethi, D., Butchart, A., Mikton, C., . . . Dunne, M. P. (2017). The effect of multiple adverse childhood experiences on health: a systematic review and meta-analysis. The Lancet Public Health, 2(8), e356-e366.

Hunt, T. K. A., Slack, K. S., & Berger, L. M. (2017). Adverse childhood experiences and behavioral problems in middle childhood. Child Abuse & Neglect, 67, 391-402.

Jorm, A. F., & Mulder, R. T. (2018). Prevention of mental disorders requires action on adverse childhood experiences. Australian & New Zealand Journal of Psychiatry, 52(4), 316-319.

Joy, E., & Beddoe, L. (2019). ACEs, cultural considerations and ‘Common Sense’ in Aotearoa New Zealand. Social Policy and Society, 18(3), 491-497.

Kessler, R. C., McLaughlin, K. A., Green, J. G., Gruber, M. J., Sampson, N. A., Zaslavsky, A. M., . . . Williams, D. R. (2010). Childhood adversities and adult psychopathology in the WHO World Mental Health Surveys. British Journal of Psychiatry, 197(5), 378-385.

Lacey, R. E., Howe, L. D., Kelly-Irving, M., Bartley, M., & Kelly, Y. (2020). The clustering of adverse childhood experiences in the Avon Longitudinal Study of Parents and Children: are gender and poverty important? Journal of Interpersonal Violence, Advance online publication. doi/pdf/10.1177/0886260520935096

Lacey, R. E., & Minnis, H. (2020). Practitioner Review: Twenty years of research with adverse childhood experience scores–Advantages, disadvantages and applications to practice. Journal of Child Psychology and Psychiatry, 61(2), 116-130.

Leve, L. D., & Cicchetti, D. (2016). Longitudinal transactional models of development and psychopathology. Development and Psychopathology, 28(3), 621-622.

Massetti, G. M., Hughes, K., Bellis, M. A., & Mercy, J. (2020). Global perspective on ACEs. In G. J. G. Asmundson & T. O. Afifi (Eds.), Adverse Childhood Experiences (pp. 209-231): Academic Press.

McLaughlin, K. A. (2016). Future directions in childhood adversity and youth psychopathology. Journal of Clinical Child & Adolescent Psychology, 45(3), 361-382.

Merrick, M. T., Ford, D. C., Ports, K. A., & Guinn, A. S. (2018). Prevalence of adverse childhood experiences from the 2011-2014 behavioral risk factor surveillance system in 23 states. JAMA Pediatrics, 172(11), 1038-1044.

Muriwai, E., Houkamau, C. A., & Sibley, C. G. (2015). Culture as Cure? The protective function of Māori cultural efficacy on psychological distress. New Zealand Journal of Psychology, 44(2), 14-23.

National Scientific Council on the Developing Child. (2015). Supportive Relationships and Active Skill-Building Strengthen the Foundations of Resilience: Working Paper 13. Retrieved from http://www.developingchild.harvard.edu

Raposo, S. M., Mackenzie, C. S., Henriksen, C. A., & Afifi, T. O. (2014). Time does not heal all wounds: older adults who experienced childhood adversities have higher odds of mood, anxiety, and personality disorders. The American Journal of Geriatric Psychiatry, 22(11), 1241-1250.

Teicher, M. H., & Samson, J. A. (2013). Childhood maltreatment and psychopathology: A case for ecophenotypic variants as clinically and neurobiologically distinct subtypes. American Journal of Psychiatry, 170(10), 1114-1133.

Thompson, S. F., Kiff, C. J., & Mclaughlin, K. A. (2019). The neurobiology of stress and adversity in infancy. In J. Charles H Zeanah (Ed.), Handbook of Infant Mental Health (4th ed., pp. 81-94): The Guilford Press.

Wallander, J. L., Berry, S., Carr, P. A., Peterson, E. R., Waldie, K. E., Marks, E., . . . Morton, S. M. (2019). Patterns of exposure to cumulative risk through age 2 and associations with problem behaviors at age 4.5: Evidence from Growing Up in New Zealand. Journal of Abnormal Child Psychology, 47(8), 1277-1288.

Walsh, D., McCartney, G., Smith, M., & Armour, G. (2019). Relationship between childhood socioeconomic position and adverse childhood experiences (ACEs): a systematic review. Journal of  Epidemiology and Community Health, 73(12), 1087-1093.

Walsh, M. C., Joyce, S., Maloney, T., & Vaithianathan, R. (2019). Adverse childhood experiences and school readiness outcomes: results from the Growing Up in New Zealand study. The New Zealand Medical Journal, 132(1493), 15-24.

Walsh, M. C., Joyce, S., Maloney, T., & Vaithianathan, R. (2020). Exploring the protective factors of children and families identified at highest risk of adverse childhood experiences by a predictive risk model: An analysis of the Growing Up in New Zealand cohort. Children and Youth Services Review, 108, 104556.

Whitfield, C. L., Dube, S. R., Felitti, V. J., & Anda, R. F. (2005). Adverse childhood experiences and hallucinations. Child Abuse & Neglect, 29(7), 797-810.

Witherspoon, D. P., Bámaca-Colbert, M. Y., Stein, G. L., & Rivas-Drake, D. (2020). Hidden populations: Uncovering the developmental experiences of minoritized populations across contexts. Developmental Psychology, 56(8), 1425.

Để lại một bình luận