Why Are We Ambivalent?
Tại Sao Chúng Ta Hay Do Dự?
Life can only be understood backwards, but it must be lived forwards.
“Hiểu đời thì phải nhìn lại quá khứ, nhưng sống thì phải tiến về phía trước.”
Tác giả: Allan Zuckoff Ph.D.
Người dịch: Đinh Thị Thanh Thủy
Key points
Những điểm chính cần nhớ:
- Awareness of our future, our freedom, and the limits of our foresight make ambivalence unavoidable.
- Mâu thuẫn nội tâm là điều không tránh khỏi vì chúng ta ý thức được tương lai, sự tự do và giới hạn trong khả năng dự đoán của mình.
- Understanding the ways we can benefit from ambivalence can help us embrace it despite its challenges.
- Hiểu được lợi ích từ những mâu thuẫn sẽ giúp ta chấp nhận chúng, dù chúng mang đến nhiều thách thức.
- Existential freedom brings anxiety, influencing our hesitation in decision-making
- Tự do hiện sinh thường đi kèm lo âu, chính điều này khiến chúng ta hay do dự khi đưa ra quyết định.
Unlike approaches that prescribe the changes that people should make, motivational interviewing helps people identify changes they believe are in their own best interests. Why, then, we might wonder, would a decision to make that kind of change be a kind of wager? Why can’t we be completely sure, as well as whole-hearted, when we commit to a new direction or way of living that reflects our own goals and values?
Khác với những phương pháp áp đặt thay đổi mà mọi người “nên” làm, phỏng vấn động lực giúp họ tự nhận ra những thay đổi mà họ tin là tốt nhất cho chính mình. Vậy tại sao việc quyết định thay đổi như vậy lại giống như một canh bạc? Tại sao chúng ta không thể hoàn toàn chắc chắn, cũng như dốc lòng toàn tâm toàn ý, khi bắt tay vào một hướng đi mới hay lối sống mới phù hợp với mục tiêu và giá trị của bản thân?
It was the Danish philosopher Søren Kierkegaard who famously observed that life can only be understood backwards, but it must be lived forwards.
Triết gia người Đan Mạch Søren Kierkegaard có câu châm ngôn rất hay: “Muốn hiểu đời phải quay đầu nhìn lại, nhưng sống thì chỉ có thể tiến về phía trước.”
Human beings are unique in that we are capable of visualizing a future different from our present. We are also unique in possessing the awareness that our actions are choices rather than inevitabilities, and that choosing between different options plays an important role in determining what our future will look like. We don’t just value our freedom to choose: a robust body of research on the psychological phenomenon of reactance shows that when that freedom is threatened or taken away—especially when it comes to matters that are important to us—we are powerfully motivated to preserve or restore our freedom by defending and reasserting our autonomy.
Con người là sinh vật đặc biệt bởi khả năng hình dung một tương lai khác với hiện tại. Chúng ta cũng là loài duy nhất ý thức được rằng mỗi hành động đều là lựa chọn chứ không phải điều tất yếu, và việc chọn lựa giữa các phương án khác nhau sẽ quyết định tương lai của chính mình. Không chỉ trân trọng tự do lựa chọn, hàng loạt nghiên cứu về hiện tượng tâm lý “phản kháng” (reactance) còn cho thấy: khi quyền tự do này bị đe dọa hoặc tước đoạt – đặc biệt trong những vấn đề quan trọng – chúng ta sẽ có động lực mạnh mẽ để bảo vệ và khẳng định lại quyền tự chủ của mình.
But the freedom to choose is a double-edged sword. Each choice we make excludes other possibilities and forecloses other options. Offered two different jobs, we can only accept one; decide to marry one person and we cannot marry any other. If all goes as we hope, we will never have the experience of working at the other job or spending our life with another partner. If we do, sometime later, leave that job or divorce and marry someone else, we will still never know how our life would have been different had we made that choice the first time around. And more sobering still: our capacity to envision a future that’s different from our present also makes us the only animal that is aware of its own mortality—that knows that the time we have to make our choices, and enjoy their fruits, eventually (and often sooner than we’d wish) will come to an end.
Nhưng tự do lựa chọn là một con dao hai lưỡi. Mỗi quyết định của ta đều đồng nghĩa với việc khép lại những khả năng khác. Chọn một trong hai công việc nghĩa là từ bỏ công việc còn lại; quyết định kết hôn với một người đồng nghĩa với việc không thể cưới bất kỳ ai khác. Nếu mọi việc suôn sẻ như mong đợi, ta sẽ không bao giờ biết được cảm giác làm công việc kia hay sống cùng người bạn đời khác sẽ ra sao. Dù sau này có nghỉ việc hay ly hôn để bắt đầu với người mới, ta vẫn không bao giờ biết được cuộc đời mình sẽ khác đi thế nào nếu chọn lựa khác đi ngay từ đầu. Và đáng suy ngẫm hơn: Khả năng hình dung một tương lai khác hiện tại cũng khiến con người trở thành loài duy nhất ý thức được về cái chết của chính mình – biết rằng thời gian để đưa ra lựa chọn và tận hưởng thành quả của chúng rồi sẽ kết thúc, thường là sớm hơn ta mong đợi.
Despite all that is riding on such major life decisions—and even on much less momentous choices—we must also live with the knowledge that every decision we face requires us to act without knowing what the consequences of our choice will be. We could decide to start an exercise program, hoping it will bring us better health, increased energy, greater satisfaction with our appearance; but not only can’t we be certain that we will stick with it and achieve those benefits—even if we do, we don’t know for sure that we will finally feel that the sacrifices we made (the cost of the gym, the early mornings or late evenings, the time away from family or other activities we enjoy) were worth what we gained. Only after we’ve chosen, and experienced the consequences of our actions, can we really know whether the choice we made was the right one.
Dù những quyết định lớn nhỏ trong đời đều mang theo hệ lụy khôn lường, chúng ta vẫn phải chấp nhận một sự thật: mọi lựa chọn đều đòi hỏi ta phải hành động trong điều kiện không biết chắc hậu quả sẽ ra sao. Ví dụ, ta có thể quyết tâm tập thể dục với hy vọng cải thiện sức khỏe, tăng cường năng lượng và hài lòng hơn với ngoại hình. Nhưng chẳng những không chắc mình sẽ kiên trì đến cùng để đạt được những lợi ích đó, ngay cả khi thành công, ta cũng không thể biết liệu những hy sinh bỏ ra (tiền phòng gym, những buổi sáng sớm hay tối muộn, thời gian xa gia đình hay những thú vui khác) có xứng đáng với kết quả nhận được hay không. Chỉ sau khi chọn lựa, và trải nghiệm hậu quả của quyết định đó, ta mới thực sự biết được mình đã đi đúng hướng hay chưa.
Given what’s at stake, it’s no surprise that the knowledge that we could choose wrong, despite all our best efforts to identify the choice that’s best for us, makes us anxious. And that’s why we are vulnerable to being plagued with self-doubt—and the more important and consequential the choice, the greater our hesitation is apt to be.
Hiểu được những rủi ro này, chẳng có gì ngạc nhiên khi việc nhận thức rằng ta có thể chọn sai – dù đã cố gắng hết sức để tìm ra quyết định tốt nhất – lại khiến chúng ta lo lắng. Và đó chính là lý do tại sao chúng ta dễ bị ám ảnh bởi sự tự nghi ngờ bản thân – đặc biệt, những lựa chọn càng quan trọng và hệ trọng thì sự do dự của chúng ta càng lớn.
It is for these reasons that Bill Miller ends On Second Thought, his rich account of ambivalence and its vicissitudes, by arguing that being ambivalent is not just a normal part of decision-making—it can fairly be seen as “the essence of being human.” Contemplating this same reality, the existential philosopher Jean-Paul Sartre offered the startling formulation that human beings are condemned to freedom. But Miller sees it differently. He argues that we need not view the experience of ambivalence as something we must simply accept and learn to live with—we can embrace ambivalence, by recognizing what a privilege it is to be able to contemplate different paths, consciously decide which we will take, and in so doing choose among possible selves and futures.
Chính vì những lý do này, Bill Miller đã kết thúc cuốn On Second Thought – một phân tích sâu sắc về sự giằng xé nội tâm và những biến động của nó – bằng luận điểm rằng trạng thái lưỡng lự không chỉ là phần tất yếu của quá trình ra quyết định, mà còn có thể được xem là “bản chất của con người”. Trước cùng thực tế này, triết gia hiện sinh Jean-Paul Sartre đã đưa ra một nhận định gây choáng váng: con người bị kết án phải tự do. Nhưng Miller có cách nhìn khác. Ông cho rằng chúng ta không cần xem trải nghiệm giằng xé nội tâm như một điều buộc phải chấp nhận và học cách sống chung với nó. Thay vào đó, ta có thể ôm lấy sự lưỡng lự khi nhận ra đó là đặc ân khi được: Suy ngẫm về những con đường khác nhau; Tự quyết định lối đi cho mình; Qua đó, lựa chọn giữa những phiên bản và tương lai khả dĩ của bản thân.
To hold this view of ambivalence not just as something to be overcome but as a gift might seem difficult to achieve (especially when we are caught in the vicious cycle of tension, avoidance, impulsive action, and self-blame that ambivalence can trap us in). What can help is the realization that ambivalence need not always be a trap—that there are benefits to being ambivalent that we can learn to obtain. The oft-unrecognized positive face of ambivalence will be our next focus in this blog.
Việc coi sự giằng xé nội tâm không chỉ là thứ cần vượt qua mà còn là một món quà nghe có vẻ khó chấp nhận (đặc biệt khi ta mắc kẹt trong vòng xoáy căng thẳng – trốn tránh – hành động bốc đồng – tự trách móc mà nó gây ra). Điều có thể giúp ích chính là nhận ra rằng sự giằng xé này không phải lúc nào cũng là cái bẫy – mà còn mang lại những lợi ích tiềm ẩn nếu ta biết cách khai thác. Gương mặt tích cực ít được biết đến của sự giằng xé nội tâm sẽ là chủ đề tiếp theo trong loạt bài này.
Nguồn:https://www.psychologytoday.com/us/blog/fueling-the-fire-of-change/202503/why-are-we-ambivalent
References
Tài liệu tham khảo
Søren Kierkegaard, Journalen JJ:167 (1843). https://homepage.math.uiowa.edu/~jorgen/kierkegaardquotesource.html
Miller, W.R. (2022). On second thought: How ambivalence shapes your life. Guilford Press.
Rosenberg, B, & Siegel, J.T. (2016). A 50-year review of psychological reactance theory: Do not read this article. Psychology | Faculty Scholarship, 3. https://doi.org/10.1037/mot0000091
Sartre, J.-P. (1966). Being and nothingness (H. Barnes, Trans.). Washington Square Press. (Original work published in 1943)
