Hiệu quả của Liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm trong cải thiện triệu chứng lo âu và chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân ung thư vú

The Effectiveness of Mindfulness-Based Cognitive Therapy to Improve Anxiety Symptoms and Quality of Life
in Breast Cancer Patients 

Hiệu quả của Liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm trong cải thiện triệu chứng lo âu và chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân ung thư vú

Katarina Bernadet Dinda Sekar Melati, Monica Bellynda, Kristanto Yuli Yarso, Wijaya Kusuma, Aris Sudiyanto

Người dịch: Thanh Quỳnh

Abstract

Tóm tắt 

Background: Breast cancer patients often experience anxiety, impacting their Quality of Life (QOL). Mindfulness Based Cognitive Therapy (MBCT) is a 3rd generation psychotherapy from CBT combined with MBSR where mindfulness methods are carried out in a structured and scheduled manner, able to provide a pause between the stressor and the automatic response it causes. This study aimed to assess MBCT’s effectiveness in alleviating anxiety and enhancing QOL in Stage III breast cancer patients undergoing chemotherapy, with mild-moderate anxiety disorders. 

Bối cảnh: Bệnh nhân ung thư vú thường đối mặt với lo âu, gây ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng cuộc sống (Quality of Life – QOL). Liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm (Mindfulness-Based Cognitive Therapy – MBCT) là một dạng liệu pháp tâm lý kết hợp giữa liệu pháp nhận thức hành vi (CBT) và liệu pháp giảm căng thẳng dựa trên chánh niệm (MBSR), nhằm giúp tạo khoảng cách giữa các tác nhân gây căng thẳng và phản ứng tự động. Nghiên cứu này đánh giá hiệu quả của liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm (MBCT) trong việc giảm lo âu và nâng cao chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân ung thư vú giai đoạn III đang thực hiện hóa trị, với các rối loạn lo âu mức độ nhẹ đến trung bình.

Method: The experimental research, conducted at Moewardi General Hospital Surakarta from March to June 2023, employed a quasi-experimental pretest–posttest control group design. Thirty subjects were divided into intervention (MBCT) and control (psychoeducation) groups. Participants completed demographic forms, disease history, and assessments using the Hospital Anxiety & Depression Scale (HADS-A) and European Organisation for Research and Treatment of Cancer Quality of Life Questionnaire Core 30 (EORTC QLQ-C30). 

Phương pháp: Nghiên cứu thực nghiệm này được tiến hành tại Bệnh viện Đa khoa Moewardi, Surakarta từ tháng 3 đến tháng 6 năm 2023, áp dụng thiết kế  bán thực nghiệm (quasi-experimental) với nhóm đối chứng có kiểm tra trước – sau (pretest–posttest control group design). Tổng cộng 30 người tham gia nghiên cứu được chia thành hai nhóm: nhóm can thiệp (liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm) và nhóm đối chứng (giáo dục tâm lý). Các công cụ đánh giá được sử dụng bao gồm thang đo lo âu và trầm cảm tại bệnh viện (HADS-A) và bảng câu hỏi chất lượng cuộc sống của Tổ chức Châu Âu về nghiên cứu và điều trị ung thư, phiên bản tiêu chuẩn 30 (EORTC QLQ-C30). 

Result: There was a significant improvement in HADS-A scores in both groups (P <0.001) where the difference in the median HADS score in intervention group was higher compared to the control group. The effect of MBCT to the score improvement of HADS-A showed statistically significant results P=0.003 with HR 1.288. In the EORTC QLQ C30 Global score, the intervention group experienced a significant increase P<0.001, and in the control group, it did not significantly increase p=0.087 although multivariate analysis showed that MBCT was not significant in improving the global EORTC score. From the continued multivariate analysis of the EORTC QLQ C30 function, score improvement was significantly influenced by MBCT with P=0.035 and HR 3.086. Meanwhile, for the EORTC symptoms, score improvement was influenced by MBCT with P=0.005 and HR3.401. 

Kết quả: điểm thang đo HADS-A của cả hai nhóm đều cải thiện đáng kể (P < 0.001), trong đó sự khác biệt về điểm trung vị HADS ở nhóm can thiệp cao hơn so với nhóm đối chứng. Tác động của liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm đối với việc cải thiện điểm của thang đo HADS-A cho thấy kết quả có ý nghĩa thống kê với P = 0.003 và HR = 1.288.  Ở điểm thang đo tổng thể EORTC QLQ C30, nhóm can thiệp ghi nhận sự cải thiện đáng kể (P < 0.001), trong khi nhóm đối chứng không có tăng (P = 0.087). Tuy nhiên, phân tích đa biến cho thấy liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm không có ý nghĩa trong việc cải thiện điểm tổng thể về chất lượng cuộc sống EORTC. Phân tích đa biến tiếp theo với điểm EORTC QLQ C30 chỉ ra rằng sự cải thiện điểm số chịu ảnh hưởng đáng kể từ liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm với P = 0.035 và HR = 3.086. Trong khi đó, đối với các triệu chứng được đánh giá theo thang EORTC, việc cải thiện điểm cũng chịu ảnh hưởng bởi liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm với P = 0.005 và HR = 3.401.  

Conclusion: There is a score improvement in HADS-A and EORTC with the provision of MBCT psychotherapy and with the provision of psychotherapy. However, the HADS and EORTC improvement scores were significantly higher with MBCT compared to psychotherapy alone. 

Kết luận: Liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm không chỉ giúp giảm lo âu mà còn cải thiện đáng kể chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân ung thư vú khi so sánh với liệu pháp giáo dục tâm lý đơn thuần.

Keywords: MBCT- psychotherapy- anxiety- quality of life- breast cancer  

Từ khóa: Liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm – trị liệu tâm lý – lo âu – chất lượng sống – bệnh nhân ung thư vú

Introduction: 

Breast cancer is the most common type of cancer and the second leading cause of cancer death among Asian American women. In Indonesia, PERABOI (Surgical Oncology Forum of Indonesia) collected data from 4959 cases from 16 of 38 provinces in Indonesia. From the data collected from 2014 to 2018, 50.9% were diagnosed with Stage III and 20.1% with Stage IV. In our center, about 100 new cases are recorded every year. 

Ung thư vú là loại ung thư phổ biến nhất và là nguyên nhân thứ hai gây tử vong do ung thư ở phụ nữ Mỹ gốc Á. Tại Indonesia, Diễn đàn Ngoại khoa Ung thư của Indonesia (PERABOI) đã thu thập dữ liệu từ 4.959 trường hợp từ 16 trong số 38 tỉnh trong nước, giai đoạn 2014-2018, trong đó 50,9% được chẩn đoán giai đoạn III và 20,1% giai đoạn IV. Tại trung tâm của chúng tôi, hàng năm ghi nhận khoảng 100 trường hợp mới.  

At the initial diagnosis of breast cancer, 38.6% of patients experience adjustment disorders, and 70% of advanced breast cancer patients who are waiting for the treatment process experience anxiety. Asian women are known to have a Post Traumatic Stress Disorder (PTSD) score 24 times higher than American and European women when they receive a breast cancer diagnosis. 

Ở thời điểm ban đầu được chẩn đoán ung thư vú, 38,6% bệnh nhân gặp phải rối loạn điều chỉnh, và 70% bệnh nhân ung thư vú giai đoạn tiến triển, đang chờ đợi điều trị, trải qua tình trạng lo âu. Phụ nữ châu Á được biết đến với điểm rối loạn căng thẳng hậu chấn thương (PTSD) cao hơn 24 lần so với phụ nữ Mỹ và châu Âu khi nhận được chẩn đoán ung thư vú.  

Risk factors for anxiety symptoms in breast cancer patients include 3 aspects consisting of biological, psychological, and social aspects. Chronic inflammation triggered by cancer cells can affect the nervous system, Sympathetic Adrenal – Medullar (SAM), and Hypothalamic – Pituitary Adrenal (HPA) axis which eventually leads to psychiatric symptoms such as anxiety. Anxiety can further trigger sensations of body tension and pain that make attention focused on physical symptoms and continuing the process  can strengthen anxiety levels.

Các yếu tố nguy cơ gây triệu chứng lo âu ở bệnh nhân ung thư vú bao gồm các khía cạnh sinh học, tâm lý, và xã hội. Viêm mạn tính do tế bào ung thư kích hoạt có thể ảnh hưởng đến hệ thần kinh, Hệ giao cảm Tủy thượng thận (Sympathetic – Adrenal – Medullar (SAM), và trục  Hạ đồi – Tuyến Yên – Tuyến thượng thận (Hypothalamic – Pituitary – Adrenal (HPA), dẫn đến các triệu chứng tâm thần như lo âu. Lo âu cũng có thể gây ra các cảm giác căng cơ và đau đớn, khiến sự chú ý tập trung vào các triệu chứng cơ thể, từ đó làm trầm trọng thêm mức độ lo âu.  

Anxiety can ultimately lead to a decrease in quality of life (QoL), decreased self confidence in women after mastectomy, and interference with sexual and financial life. Psychosocial interventions from the onset of cancer diagnosis can improve outcomes and QoL for patients with cancer. 

Cuối cùng tình trạng lo âu có thể dẫn đến sự suy giảm chất lượng cuộc sống (QoL), giảm sự tự tin của phụ nữ sau phẫu thuật cắt bỏ vú, và ảnh hưởng tới đời sống tình dục cũng như tài chính. Các can thiệp tâm lý xã hội từ thời điểm chẩn đoán ung thư có thể cải thiện kết quả điều trị và chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân ung thư.

Mindfulness-Based Stress Reduction (MBSR) is one of the developments of mindfulness therapy that shows good efficacy for psychopathology in breast cancer patients [9]. Mindfulness-Based Cognitive Therapy (MBCT) is a third-generation psychotherapy derived from Cognitive Behavior Therapy (CBT) by combining MBSR with CBT which is effective for treating and preventing anxiety and depression [10]. Compared to MBSR, MBCT has a more explicit psychoeducational component on the relationship between mood, bodily sensations, and cognition including emphasizing ‘ruminative’ thoughts as a target to address. 

Liệu pháp giảm căng thẳng dựa trên chánh niệm (MBSR) là một trong những phương pháp phát triển từ liệu pháp chánh niệm, đã chứng minh được hiệu quả cao trong điều trị các vấn đề tâm lý ở bệnh nhân ung thư vú. Liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm, thuộc làn sóng thứ ba của trị liệu tâm lý, được phát triển từ liệu pháp nhận thức hành vi (CBT), bằng cách kết hợp giữa liệu pháp giảm căng thẳng dựa trên chánh niệm (MBSR) và liệu pháp nhận thức hành vi (CBT), hiệu quả trong việc điều trị và ngăn ngừa tình trạng lo âu và trầm cảm. So với liệu pháp giảm căng thẳng dựa trên chánh niệm (MBSR), liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm (MBCT) có phần giáo dục tâm lý rõ ràng hơn về mối liên hệ giữa tâm trạng, cảm giác cơ thể và nhận thức, trong đó nhấn mạnh việc xử lý các suy nghĩ tiêu cực lặp đi lặp lại.

Psychoneuroimmunologically, the role of MBCT on anxiety symptoms can be proven through the process of Top-Down Regulation, Bottom Up Regulation on Neural Stress Reduction Pathways, SAM, and HPA on Peripheral Stress Pathways. MBCT intervention contributes positively to overcoming psychological distress such as depression, anxiety, fear, fatigue, and QoL with a sample of breast cancer patients.

Về mặt tâm lý thần kinh miễn dịch, vai trò của liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm đối với triệu chứng lo âu có thể được chứng minh qua các quá trình điều hòa từ trên xuống, điều hòa từ dưới lên của các con đường thần kinh giảm căng thẳng, cũng như  các cơ chế ngoại vi trên các trục SAM VÀ HPA. Can thiệp liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm (MBCT) mang lại những tác động tích cực trong việc giảm căng thẳng tâm lý, như trầm cảm, lo âu, sợ hãi, mệt mỏi, và cải thiện chất lượng cuộc sống ở các bệnh nhân ung thư vú.

Seeing the high prevalence of anxiety symptoms in breast cancer patients caused by biopsychosocial factors, as well as the impact of treatment on patients so that it worsens the underlying disease, and of course can affect function and QoL, this study aims to analyze the effectiveness of MBCT to reduce anxiety symptoms and improve the QoL of breast cancer patients. 

Với tỷ lệ cao của các triệu chứng lo âu ở bệnh nhân ung thư vú do các yếu tố sinh học, tâm lý và xã hội, cùng với tác động của điều trị khiến tình trạng bệnh trở nên nghiêm trọng hơn, nghiên cứu này nhằm phân tích hiệu quả của liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm trong việc giảm triệu chứng lo âu và cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.

Materials and Methods 

Quasi-experimental research with a pretest-posttest control group design was conducted in the inpatient ward of RSUD Dr. Moewardi Surakarta from March to June 2023. The research has received approval from the Ethics Committee of FK-UNS/RSUD Dr. Moewardi Surakarta Number 525/IV/HREC/2023. The purposive sampling technique was used to select research subjects, with the calculation of the sample size based on the formula for determining the size of the numerical analytic sample. The mean HADS-A score of breast cancer patients before the study was 8.34 ± 3.52. Type I error of 5% and type II error of 10% were used in the sample size determination.

Nghiên cứu bán thực nghiệm với thiết kế nhóm đối chứng có kiểm tra trước – sau được thực hiện tại khu nội trú của Bệnh viện Đa khoa RSUD Dr. Moewardi Surakarta từ tháng 3 đến tháng 6 năm 2023. Nghiên cứu đã được phê duyệt bởi Hội đồng đạo đức của FK-UNS/RSUD Dr. Moewardi Surakarta với số quyết định 525/IV/HREC/2023. Kỹ thuật chọn mẫu có chủ đích được áp dụng để chọn đối tượng nghiên cứu, với việc xác định kích thước mẫu dựa trên công thức tính mẫu phân tích số liệu. Điểm trung bình HADS-A của bệnh nhân ung thư vú trước nghiên cứu là 8.34 ± 3.52. Sai số loại I là 5% và loại II là 10% được sử dụng trong việc xác định kích thước mẫu.  

Inclusion criteria included stage III breast cancer patients undergoing chemotherapy, aged 18-55 years, minimum junior high school education, ability to read, write, online access, understand and speak Indonesian, willingness to be a research subject, having mild to moderate anxiety symptoms (score 8-14 HADS). Exclusion criteria included severe mental disorders with psychotic symptoms, manifestations of multiorgan disorders and severe comorbidities (Karnofsky performance status ≤70), having received mindfulness-based training, consumption of antidepressants and antianxiety drugs during treatment, and refusal to participate in the study. 

Các tiêu chí đưa vào nghiên cứu bao gồm: bệnh nhân ung thư vú giai đoạn III đang hóa trị, độ tuổi từ 18-55, trình độ học vấn tối thiểu là trung học cơ sở, khả năng đọc và viết, truy cập trực tuyến, hiểu và nói tiếng Indonesia, sẵn sàng tham gia nghiên cứu, và có triệu chứng lo âu nhẹ đến trung bình (điểm HADS từ 8-14). Tiêu chí loại trừ bao gồm: các rối loạn tâm thần nặng có triệu chứng loạn thần, biểu hiện của rối loạn đa cơ quan và các bệnh lý kèm theo nghiêm trọng (điểm Karnofsky ≤70), đã từng nhận huấn luyện chánh niệm, sử dụng thuốc chống trầm cảm và giảm lo âu trong quá trình điều trị, hoặc từ chối tham gia nghiên cứu.

The study subjects filled out demographic data forms and disease history, as well as filled out the HADS-A and 3082 EORTC QLQ C30 questionnaires by the subjects. Subjects in the treatment group received MBCT training through Zoom with 5 training sessions for 60-90 minutes, 2 times per week. After the training session was completed, the subjects were asked to fill out the questionnaire regarding HADS-A and EORTC QLQ C30 again. 

Người tham gia nghiên cứu đã điền vào biểu mẫu dữ liệu nhân khẩu học và lịch sử bệnh, cũng như hoàn thành bộ câu hỏi HADS-A và EORTC QLQ C30. Những người tham gia trong nhóm điều trị đã nhận huấn luyện liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm (MBCT) qua Zoom với 5 buổi tập kéo dài từ 60-90 phút, 2 lần/ tuần. Sau khi hoàn thành huấn luyện, các đối tượng được yêu cầu điền lại bộ câu hỏi HADS-A và EORTC QLQ C30. 

The collected data were analyzed using SPSS to compare the scores before and after the intervention. Data analysis to determine the difference in mean HADS-A and EORTC QLQ C30 scores in the control group and intervention group, pre and post e-MBCT was carried out for 5 sessions. Unpaired difference test (2 groups) uses the independent t-test if the data distribution is normal or the Mann-Whitney test if not. Then the paired difference test (2 groups) uses the paired t-test if the data distribution is normal or the Wilcoxon test if not. Multivariate analysis tests were carried out to see the differences in research variables and confounding variables. The analysis carried out in this study was linear regression analysis. Normality test using Shapiro-Wilk. The basis for making the decision to accept the hypothesis is based on a significance level (α value) of 0.5%; if p<α (α=0.05; df=1) then the hypothesis is accepted.

Dữ liệu thu thập được phân tích bằng phần mềm SPSS để so sánh các điểm trước và sau can thiệp. Phân tích dữ liệu nhằm xác định sự khác biệt về điểm trung bình HADS-A và EORTC QLQ C30 giữa nhóm kiểm soát và nhóm điều trị, trước và sau khi triển khai liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm trực tuyến (e-MBCT), được thực hiện trong 5 buổi. Phép kiểm định sai biệt không ghép cặp (2 nhóm) sử dụng kiểm định t độc lập nếu dữ liệu phân phối chuẩn hoặc kiểm định Mann-Whitney nếu không chuẩn. Tiếp đó, phép kiểm định sai biệt ghép cặp (2 nhóm) sử dụng kiểm định t ghép cặp nếu dữ liệu phân phối chuẩn hoặc kiểm định Wilcoxon nếu không chuẩn. Phân tích đa biến được thực hiện để xem sự khác biệt trong các biến nghiên cứu và các biến nhiễu. Phân tích thực hiện trong nghiên cứu này là hồi quy tuyến tính. Kiểm định chuẩn được thực hiện bằng Shapiro-Wilk. Cơ sở đưa ra quyết định chấp nhận giả thuyết dựa vào mức độ ý nghĩa (giá trị α) là 0.5%; nếu p<α (α=0.05; df=1) thì giả thuyết được chấp nhận.

Results 

The total samples were 32 subjects taken and divided into two groups by drawing lots. A total of 16 research respondents were included in the intervention group and received 5 MBCT sessions for 3 weeks online. While 16 research respondents were included in the control group who were given psychoeducation for 3 sessions for 3 weeks. During the study, 2 respondents dropped out due to condition and cannot continue MBCT for 1 respondent and psychoeducation for 1 respondent. 

Kết quả

Tổng số mẫu nghiên cứu là 32 người, được chia thành hai nhóm bằng cách rút thăm. Nhóm can thiệp gồm 16 người tham gia, nhận được 5 buổi huấn luyện liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm trực tuyến trong 3 tuần. Nhóm đối chứng gồm 16 người, tham gia 3 buổi giáo dục tâm lý trong 3 tuần. Trong quá trình nghiên cứu, có 2 người bỏ cuộc do tình trạng sức khỏe: 1 người từ nhóm MBCT và 1 người từ nhóm giáo dục tâm lý. 

We identify factors that are thought to influence the subjects’ outcomes. The respondents were found to have most of their education below high school (53.5%), married marital status (96.7%), income ≥ 2.5 million (63.3%), and daily commuting (53.3%). The t-test between groups did not show statistically significant differences with a value of p>0.05, or it can be said that the characteristics of the subjects of this study were in the same or homogeneous population, so it did not interfere with the results of the experiments that were carried out. 

Các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả của đối tượng nghiên cứu đã được xác định. Phần lớn các đối tượng có trình độ học vấn dưới trung học phổ thông (53,5%), đã kết hôn (96,7%), thu nhập từ 2,5 triệu trở lên (63,3%), và giao tiếp hàng ngày (53,3%). Kiểm định t giữa các nhóm không cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với giá trị p > 0,05, chứng tỏ đặc điểm của các đối tượng trong nghiên cứu này là đồng nhất, không ảnh hưởng đến kết quả thí nghiệm.

There was a significant improvement in HADS-A scores after providing interventions using both MBCT (<0.001) and providing psychoeducation alone (0.001). Even though the HAD-s scores had increased significantly, the difference in the HADS-A score had increased and was also significantly higher in the MBCT group compared to the psychoeducation (control) group (p=<0.001). Before the intervention, HADS-A scores in both groups showed no significant difference (p=0.121). 

Điểm HADS-A cải thiện đáng kể sau khi áp dụng cả hai phương pháp can thiệp: MBCT (p<0,001) và giáo dục tâm lý (p=0,001). Dù cả hai phương pháp đều mang lại cải thiện đáng kể, mức độ cải thiện điểm HADS-A ở nhóm liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm vượt trội hơn so với nhóm đối chứng (p<0,001). Trước khi can thiệp, điểm HADS-A giữa hai nhóm không có sự khác biệt đáng kể (p=0,121).

The comparison of EORTC Global scores did not show significant results in the pretest sample (p=0.168) (Table 2). There was a significant improvement in the EORTC Global score in the group after MBCT(p=0.001) but not in the control group who got psychoeducation only (p=0.087). The difference in improvement was also significantly higher in the MBCT group compared to the  control group (p=0.001). In addition, there was a significant improvement in the median EORTC function scores. In the control group (p=<0.001) and MBCT group (p=0.001), the difference in the decrease in EORTC function score was better in the MBCT group (p=<0.001). 

So sánh điểm EORTC tổng quát  trước can thiệp không cho thấy sự khác biệt đáng kể (p=0,168). Sau khi can thiệp bằng liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm, điểm EORTC tổng quát cải thiện đáng kể (p=0,001), trong khi nhóm giáo dục tâm lý không có cải thiện rõ ràng (p=0,087). Sự chênh lệch mức độ cải thiện này cũng cao hơn đáng kể ở nhóm can thiệp bằng liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm so với nhóm đối chứng (p=0,001). Ngoài ra, điểm chức năng EORTC cải thiện đáng kể ở cả nhóm đối chứng (p<0,001) và nhóm can thiệp bằng liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm (p=0,001). Tuy nhiên, mức độ giảm điểm chức năng EORTC ở nhóm can thiệp bằng liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm tốt hơn (p<0,001).

Based on the results of the study, an unpaired t-test comparison of EORTC function scores between the control and MBCT groups did not show significant results in the pretest (p=0.733) and posttest (p=0.157) samples. The results of the EORTC Symptom Score of the MBCT group showed a significant median improvement (p=0.001), while in the control group, there was no significant median improvement (p=0.142).

So sánh kiểm định t không ghép cặp về điểm chức năng EORTC giữa hai nhóm cho thấy không có sự khác biệt đáng kể ở cả mẫu trước can thiệp (p=0,733) và sau can thiệp (p=0,157). Kết quả về điểm triệu chứng EORTC của nhóm can thiệp bằng liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm cho thấy sự cải thiện trung vị rõ rệt (p=0,001), trong khi nhóm đối chứng không có cải thiện đáng kể (p=0,142).

Then, in the pre-post difference score, it is known that the intervention  group experienced a significant improvement in EORTC Symptoms scores (p=0.001). In the demographic data in the two treatment groups, there was a variable distribution of length of diagnosis with p <0.2. Therefore, we carried out a regression on the difference in score improvement by including the time of diagnosis in the multivariate analysis to ascertain whether the increase was influenced by the length of diagnosis

Phân tích sự khác biệt trước và sau can thiệp cho thấy nhóm can thiệp bằng liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm (MBCT) đã có sự cải thiện đáng kể về điểm triệu chứng EORTC (p=0.001). Về dữ liệu nhân khẩu học trong hai nhóm điều trị, có sự phân bố biến về thời gian chẩn đoán với p<0.2. Vì vậy, phân tích hồi quy được thực hiện dựa trên sự chênh lệch điểm cải thiện, bao gồm thời gian chẩn đoán trong phân tích đa biến để xác định liệu sự cải thiện có bị ảnh hưởng bởi thời gian chẩn đoán hay không.

Multivariate analysis of HADS showed that  MBCT was a strong factor in improving HAds scores with P=0.003 and HR 1.288, while the effect of time diagnosis was not significant with P=0.748. The global EORTC improvements showed that the two variables did not have  a significant influence. However, when we examined the EORT symptoms further, they showed that the score improvement was influenced by MBCT with P=0.005 and HR 3.401, while the time of diagnosis did not affect it with P=0.675. In the EORTC function score, the effect of MBCT also improved with P=0.035 and HR 3.086, while the time from diagnosis was not significant with P=0.476.

Phân tích đa biến điểm HADS cho thấy MBCT là yếu tố mạnh mẽ trong việc cải thiện điểm HADS với P=0.003 và HR 1.288, trong khi thời gian chẩn đoán không có ý nghĩa (P=0.748). Sự cải thiện điểm EORTC tổng thể không cho thấy tác động đáng kể của cả hai biến. Tuy nhiên, khi phân tích sâu điểm triệu chứng EORTC, MBCT ảnh hưởng đến cải thiện điểm số (P=0.005 và HR 3.401), trong khi thời gian chẩn đoán không có tác động (P=0.675). MBCT cũng ảnh hưởng đến cải thiện điểm chức năng EORTC  (P=0.035 và HR 3.086), trong khi thời gian từ chẩn đoán không có ý nghĩa (P=0.476).

These 4 scores show that the analysis which included the length of diagnosis as a confounding variable actually showed that MBCT was still the main factor in improving HADS scores, EORTC functions, and  EORTC symptoms.

Các kết quả này cho thấy, khi đưa thời gian chẩn đoán vào phân tích như một biến nhiễu, liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm vẫn là yếu tố chính cải thiện điểm HADS, điểm chức năng EORTC và điểm triệu chứng EORTC.

Discussion

In this study, the average age of research subjects was 40.9±4.69 and 41.6±4.05 in the intervention group and the control group respectively. In educational characteristics, 53.3% of the research subjects completed junior high school. There was 53.3% of the research subjects have jobs and are actively working with the majority of subjects having an income above the provincial minimum wage. A total of 96.7% of the subjects in this study were married. These data were in line with research results found by Megawati at RSCM in 2012 showing that most of the subjects were aged 40- 50 years, patients were married and completed secondary school. A study by Naughton và cộng sự showed that the majority of the subjects of the study experienced concerns and problems in their work after being diagnosed with cancer. 

Thảo luận

Trong nghiên cứu này, độ tuổi trung bình của đối tượng tham gia là 40,9 ± 4,69 ở nhóm can thiệp và 41,6 ± 4,05 ở nhóm đối chứng. Về trình độ học vấn, 53,3% đối tượng hoàn thành bậc trung học cơ sở. 53,3% đối tượng có công việc ổn định và làm việc tích cực với phần lớn có thu nhập trên mức lương tối thiểu của tỉnh. Ngoài ra, 96,7% các đối tượng đã kết hôn. Những dữ liệu này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Megawati tại RSCM năm 2012, trong đó phần lớn các đối tượng ở độ tuổi từ 40-50, đã kết hôn và hoàn thành bậc trung học. Nghiên cứu của Naughton và cộng sự cũng cho thấy phần lớn đối tượng cảm thấy lo lắng và gặp vấn đề trong công việc sau khi được chẩn đoán ung thư.

However, this contradicted research conducted by Timperi và cộng sự which showed that continuing to work after a breast cancer diagnosis might be beneficial for some areas of QoL. However, working after a breast cancer diagnosis was still a challenge for some women. 

Tuy nhiên, nghiên cứu của Timperi và cộng sự lại có kết quả mâu thuẫn, khi chỉ ra rằng việc tiếp tục làm việc sau chẩn đoán ung thư vú có thể mang lại lợi ích cho một số khía cạnh của chất lượng cuộc sống (QoL). Dù vậy, vẫn có nhiều phụ nữ gặp khó khăn trong công việc sau khi được chẩn đoán ung thư.

The results showed that intervention with Mindfulness Based Cognitive Therapy (MBCT) significantly reduced anxiety scores (HADS-A) in the intervention group. The result was in line with the findings in the study of Chu và cộng sự (2020) who compared MBCT with a control group of breast cancer patients. Other studies also noted a  decrease in anxiety after MBCT intervention, as reported by Park và cộng sự and better outcomes in psychological distress, fatigue, and spiritual well-being in MBCT group participants. 

Can thiệp bằng liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm (MBCT) giúp giảm đáng kể điểm lo âu (HADS-A) ở nhóm can thiệp. Kết quả này phù hợp với phát hiện từ nghiên cứu của Chu và cộng sự (2020), so sánh liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm với nhóm đối chứng ở bệnh nhân ung thư vú. Các nghiên cứu khác cũng ghi nhận sự giảm lo âu sau khi can thiệp bằng liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm, chẳng hạn như báo cáo của Park và cộng sự, cho thấy sự cải thiện rõ rệt về căng thẳng tâm lý, mệt mỏi, và sức khỏe tinh thần của các đối tượng trong nhóm can thiệp bằng liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm.

The HADS-A score difference results showed significant differences between the intervention and control groups, confirming the effectiveness of MBCT in reducing anxiety levels in breast cancer patients. Another study also supported this finding by noting a decrease in psychological burden, including anxiety and depression, in non-metastatic breast cancer patients after MBCT intervention. Other studies showed that MBCT could influence brain networks and had a significant effect on modulating the reactivity of stress-processing regions, providing evidence regarding the neural pathways that influenced the effects of MBCT in breast cancer patients.

Kết quả khác biệt điểm HADS-A cho thấy sự khác biệt đáng kể giữa nhóm can thiệp và nhóm đối chứng, khẳng định hiệu quả của MBCT trong việc giảm mức độ lo âu ở bệnh nhân ung thư vú. Một nghiên cứu khác cũng ủng hộ kết quả này, ghi nhận sự giảm gánh nặng tâm lý, bao gồm lo âu và trầm cảm, ở bệnh nhân ung thư vú không di căn sau can thiệp MBCT. Các nghiên cứu khác chỉ ra rằng MBCT có thể ảnh hưởng đến mạng lưới não bộ và điều chỉnh đáng kể phản ứng của các vùng xử lý căng thẳng, cung cấp bằng chứng về con đường thần kinh liên quan đến tác động của MBCT ở bệnh nhân ung thư vú.

Overall, MBCT had a positive impact on the psychological symptoms and QoL of breast cancer patients, confirming the important role of mindfulness-based cognitive therapy in managing the psychological aspects of the disease. 

Ngoài ra, liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm đã chứng minh được tác động tích cực đến triệu chứng tâm lý và chất lượng cuộc sống (QoL) của bệnh nhân, khẳng định vai trò quan trọng của liệu pháp này trong việc quản lý các khía cạnh tâm lý của bệnh.

This study showed that intervention with Mindfulness Based Cognitive Therapy (MBCT) resulted in a significant increase in functioning, but not Global subscale EORTC scores, as well as a significant decrease in Symptom subscale EORTC scores in the intervention group (EORTC, year). These results were consistent with previous studies, as reported by Eyles và cộng sự (2015) who found significant improvements in cognitive and physical function EORTC scores after MBCT intervention. 

Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm giúp cải thiện đáng kể chức năng (functioning), nhưng không tác động đáng kể đến điểm EORTC tổng thể (Global subscale). Tuy nhiên, liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm giúp giảm đáng kể điểm triệu chứng EORTC (Symptom subscale) trong nhóm can thiệp. Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu trước đây, như nghiên cứu của Eyles và cộng sự (2015), khi ghi nhận những cải thiện đáng kể trong điểm chức năng nhận thức và thể chất sau khi can thiệp bằng liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm.

Other studies also supported the positive effects of MBCT, including improvements in QoL. Significant results were also seen in managing pain intensity, signaling MBCT as an effective pain rehabilitation strategy. In addition, cognitive behavioral therapy had also been shown to be effective in reducing symptoms and improving QoL and psychological health in breast cancer patients. Another study confirmed that mindfulness activities helped patients cope with their diagnosis. In this context, MBCT was also well received by breast cancer patients, resulting in a positive impact on their QoL and psychological well-being.

Một số nghiên cứu khác cũng nhấn mạnh tác dụng tích cực của liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm, bao gồm cải thiện chất lượng cuộc sống (QoL), kiểm soát cường độ đau và trở thành một chiến lược hiệu quả trong phục hồi chức năng đau. Liệu pháp nhận thức hành vi (CBT) cũng đã được chứng minh hiệu quả trong việc giảm triệu chứng và cải thiện QoL cũng như sức khỏe tâm lý của bệnh nhân ung thư vú. Ngoài ra, các hoạt động chánh niệm giúp bệnh nhân đối mặt tốt hơn với chẩn đoán bệnh, mang lại tác động tích cực cho chất lượng cuộc sống và hạnh phúc tinh thần của họ.

The characteristic variables jointly influenced the HADS-A score, with the length of diagnosis becoming a variable that was likely to influence the increase in the value of HAD-s. From the multivariate analysis, the time of diagnosis together with MBCT showed that the time of diagnosis did not have much influence with P 0.748, while MBCT had an effect for improving HADS p=0.003 with HR 1.288. This finding was not in line with Burgess và cộng sự (2014) who found higher levels of anxiety and depression early in the course of the disease, indicating an expectation that anxiety and depression levels improved with time since diagnosis. 

Các biến đặc trưng có ảnh hưởng đồng thời đến điểm HADS-A, trong đó thời gian được chẩn đoán là biến khả năng ảnh hưởng đến sự gia tăng điểm HADS. Tuy nhiên, phân tích đa biến cho thấy thời gian chẩn đoán không có tác động nhiều (P=0.748), trong khi MBCT có ảnh hưởng đáng kể trong cải thiện điểm HADS (P=0.003, HR 1.288). Kết quả này không nhất quán với nghiên cứu của Burgess và cộng sự (2014), khi họ phát hiện mức độ lo âu và trầm cảm cao hơn ở giai đoạn đầu của bệnh, cho thấy kỳ vọng rằng mức độ lo âu và trầm cảm cải thiện theo thời gian từ lúc chẩn đoán bệnh.

Regarding the symptoms of EORTC scores, the table shows time from diagnosed variables having no significant effect with P=0.675 while MBCT improved the EORTC score with P=0.005 and HR 3.401. Meanwhile, the EORTC function showed that the time from diagnosis had no effect on improving the EORTC function scores, while MBCT still showed improvement with P=0.035 and HR 3.086. 

Đối với điểm triệu chứng EORTC, biến thời gian chẩn đoán không có ảnh hưởng đáng kể (P=0.675), trong khi liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm cải thiện đáng kể điểm EORTC (P=0.005, HR 3.401). Tương tự, điểm chức năng EORTC cho thấy thời gian chẩn đoán không ảnh hưởng đến sự cải thiện, trong khi liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm vẫn mang lại tác động cải thiện (P=0.035, HR 3.086). 

The global EORTC showed no influence on either time of diagnosis or MBCT. Early diagnosis of breast cancer was often associated with anxiety related to the spread of cancer cells and negative public perceptions of the disease, affecting patients’ QoL. This finding was not in line with the research results found by Juwita và cộng sự, but this finding was in line with the research results revealed by Rahmiwati và cộng sự who did not find a significant relationship between the length of time of breast cancer diagnosis and QoL. 

Điểm EORTC tổng thể không cho thấy tác động từ cả thời gian chẩn đoán lẫn liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm. Chẩn đoán ung thư vú sớm thường liên quan đến sự lo âu về sự lây lan của tế bào ung thư và những nhận thức tiêu cực từ cộng đồng, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống (QoL) của bệnh nhân. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Rahmiwati và cộng sự, nhưng lại mâu thuẫn với nghiên cứu của Juwita và cộng sự, trong đó không tìm thấy mối liên hệ đáng kể giữa thời gian chẩn đoán và chất lượng cuộc sống.

The factors of age and cancer severity affect physical function impairment and were the most important aspects in affecting the QoL in breast cancer patients. In breast cancer patients, there are increasing number of anxiety symptoms about 2 folds higher than depression. However no significant effect of anxiety (p=0.399) or depressive symptoms (p=0.749) towards cancer patients survival after 13 years follow-up. 

Các yếu tố về độ tuổi và mức độ nghiêm trọng của bệnh ung thư ảnh hưởng đến sự suy giảm chức năng thể chất, được coi là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến QoL ở bệnh nhân ung thư vú. Mặc dù triệu chứng lo âu ở bệnh nhân ung thư vú cao gấp đôi triệu chứng trầm cảm, nghiên cứu cho thấy không có tác động đáng kể của lo âu (P=0.399) hoặc trầm cảm (P=0.749) đối với tỷ lệ sống sót của bệnh nhân sau 13 năm theo dõi.

The shortcomings in this study included the difficulty of keeping the research subjects to join the zoom session. Each group could not control the window effect. It was difficult to monitor the compliance of the research subjects in doing the homework given, and there was no further evaluation of the intervention effect obtained. 

Hạn chế của nghiên cứu bao gồm việc khó khăn trong việc duy trì sự tham gia của các đối tượng nghiên cứu vào các buổi Zoom. Mỗi nhóm không thể kiểm soát hiệu ứng “window effect”. Ngoài ra, khó khăn trong việc giám sát sự tuân thủ của các đối tượng nghiên cứu khi thực hiện các bài tập tại nhà, cùng với việc không có đánh giá tiếp theo về tác động của can thiệp.

* Window effect: Sự không kiểm soát được các yếu tố ngoại lai hoặc sự lan tỏa thông tin giữa nhóm can thiệp (MBCT) và nhóm đối chứng, dẫn đến khó đảm bảo tính độc lập và đồng nhất của hai nhóm trong quá trình thực hiện can thiệp qua Zoom – Chú thích của người hiệu đính)

In conclusion, the results of this study show that there is a score improvement in HADS-A and EORTC with the provision of MBCT psychotherapy and psychotherapy. However, the HADS and EORTC improvement scores are significantly higher with MBCT compared to psychotherapy alone.

Tóm lại, kết quả nghiên cứu cho thấy điểm HADS-A và EORTC được cải thiện với liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm cũng như liệu pháp tâm lý. Tuy nhiên, sự cải thiện về điểm HADS và EORTC cao hơn đáng kể trong nhóm can thiệp bằng liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm so với chỉ liệu pháp tâm lý đơn thuần.

Để lại một bình luận