Tổng quan về các lý thuyết của Sigmund Freud

An Overview of Sigmund Freud’s Theories

Dịch: Bảo Chân – Hiệu đính: Thuỳ Trang

Freudian Theory 

Học thuyết Freud

In simple terms, Sigmund Freud’s theory suggests that human behavior is influenced by unconscious memories, thoughts, and urges. This theory also proposes that the psyche comprises three aspects: the id, ego, and superego. The id is entirely unconscious, while the ego operates in the conscious mind. The superego operates both unconsciously and consciously.

Nói một cách đơn giản, lý thuyết của Sigmund Freud cho rằng, hành vi của con người bị ảnh hưởng bởi những ký ức, suy nghĩ và thôi thúc vô thức. Lý thuyết này cũng đề xuất rằng, tâm lý bao gồm ba khía cạnh: Cái Nó (id), cái Tôi và cái Siêu Tôi. Cái Nó hoàn toàn là vô thức, trong khi cái Tôi hoạt động trong vùng ý thức. Cái Siêu Tôi hoạt động cả trong vô thức và có ý thức.

Psychology students spend a fair amount of time learning about Freud’s theory. Even those outside the psychology field often have some awareness of Freudian psychoanalysis, the school of thought created by Sigmund Freud.

Sinh viên tâm lý dành nhiều thời gian để học về lý thuyết của Freud. Ngay cả những người bên ngoài lĩnh vực tâm lý học cũng thường có một số hiểu biết về phân tâm học Freud – trường phái tư tưởng do Sigmund Freud tạo ra.

Knowing more about Freudian psychology, along with the key concepts in psychoanalysis—like the unconscious, fixations, defense mechanisms, and dream symbols—can help you understand the influence Freud’s theories have had on contemporary psychologists.

Biết thêm về tâm lý học của Freud, cùng với các khái niệm chính trong phân tâm học—như vô thức, hiện tượng “cắm chốt”, cơ chế phòng vệ và biểu tượng giấc mơ—có thể giúp bạn hiểu được ảnh hưởng của các lý thuyết của Freud đến các nhà tâm lý học đương đại.

Freud’s Theory of Talk Therapy

Lý thuyết liệu pháp trò chuyện của Freud

One of Freud’s greatest contributions to psychology was talk therapy, the notion that simply talking about problems can help alleviate them. It was through his association with his close friend and colleague Josef Breuer that Freud became aware of a woman known in the case history as Anna O.

Một trong những đóng góp lớn nhất của Freud đối với tâm lý học là liệu pháp trò chuyện, quan niệm rằng chỉ cần nói về các vấn đề cũng có thể giúp làm khuây khỏa nỗi muộn phiền. Chính nhờ sự kết hợp của ông với người bạn thân kiêm đồng nghiệp Josef Breuer mà Freud đã biết đến một người phụ nữ mà được biết đến trong hồ sơ bệnh án Anna O.

The young woman’s real name was Bertha Pappenheim. She became a patient of Breuer’s after suffering a bout of what was then known as hysteria. Symptoms included blurred vision, hallucinations, and partial paralysis.

Tên thật của cô gái trẻ là Bertha Pappenheim. Cô ấy trở thành bệnh nhân của Breuer sau khi trải qua cơn cuồng loạn mà sau đó được gọi là chứng rối loạn phân ly. Các triệu chứng bao gồm mờ mắt, ảo giác và tê liệt một phần.

Breuer observed that discussing her experiences provided some relief from her symptoms. It was Pappenheim herself who began referring to the treatment as the “talking cure.”

Breuer quan sát thấy rằng việc thảo luận về những trải nghiệm của cô ấy giúp cô ấy giảm bớt các triệu chứng. Chính Pappenheim là người bắt đầu gọi phương pháp điều trị là “chữa trị qua trò chuyện”.

While Anna O. is often described as one of Freud’s patients, the two never actually met. Freud often discussed her case with Breuer, however, and the two collaborated on an 1895 book based on her treatment titled Studies in Hysteria. 

Trong khi Anna O. thường được mô tả là một trong những bệnh nhân của Freud, cả hai lại chưa bao giờ thực sự gặp nhau. Dù vậy, Freud thường thảo luận về trường hợp của cô ấy với Breuer, và cả hai đã hợp tác trong một cuốn sách năm 1895 dựa trên phương pháp điều trị của cô ấy có tiêu đề là: Studies in Hysteria (tạm dịch Nghiên cứu về chứng rối loạn phân ly).

Freud concluded that her hysteria was the result of childhood sexual abuse, a view that ended up leading to a rift in Freud and Breuer’s professional and personal relationship. Anna O. may not have actually been Freud’s patient, but her case informed much of Freud’s work and later theories on therapy and psychoanalysis.

Freud kết luận rằng, chứng rối loạn phân ly của cô ấy là hậu quả của việc bị lạm dụng tình dục thời thơ ấu, một quan điểm cuối cùng đã dẫn đến sự rạn nứt trong mối quan hệ cá nhân cũng như là nghề nghiệp của Freud và Breuer. Anna O. có thể không thực sự là bệnh nhân của Freud, nhưng trường hợp của cô ấy đã cho biết nhiều điều về công việc của Freud và các lý thuyết sau này về trị liệu và phân tâm học.

Freud’s Theory of Personality

Lý thuyết về nhân cách của Freud

According to Freud’s theory, there are a few different factors that affect personality. They include cathexis and anticathexis, along with life and death instincts. 

Theo lý thuyết của Freud, có một vài yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến nhân cách. Chúng bao gồm cathexis và anticathexis, cùng với bản năng sống và bản năng chết.

Cathexis and Anticathexis 

Cathexis và Anticathexis

According to Freud’s psychoanalytic theory, all psychic energy is generated by libido. Freud suggested that our mental states were influenced by two competing forces: cathexis and anticathexis.

Theo lý thuyết phân tâm học của Freud, tất cả năng lượng tinh thần được tạo ra bởi libido (tạm dịch là dục năng). Freud cho rằng, trạng thái tinh thần của chúng ta bị ảnh hưởng bởi hai lực cạnh tranh: cathexis và anticathexis.

  • Cathexis was described as an investment of mental energy in a person, idea, or object.
  • Cathexis được mô tả là sự đầu tư năng lượng tinh thần vào một người, ý tưởng hoặc đối tượng.
  • Anticathexis involves the ego blocking the socially unacceptable needs of the id. Repressing urges and desires is one common form of anticathexis, but this involves a significant investment of energy.
  • Anticathexis liên quan đến việc cái Tôi ngăn chặn những nhu cầu không được xã hội chấp nhận của cái Nó. Kìm nén những thôi thúc và ham muốn là một hình thức phổ biến của anticathexis, nhưng điều này đòi hỏi một sự đầu tư năng lượng đáng kể.

If you are hungry, for example, you might create a mental image of a delicious meal that you have been craving. In other cases, the ego might harness some energy from the id (the primitive mind) to seek out activities related to the desire in order to disperse excess energy from the id. Sticking with the same example, if you can’t actually seek out food to appease your hunger, you might instead thumb through a cookbook or browse through your favorite recipe blog.

Ví dụ, nếu bạn đói, bạn có thể tạo ra hình ảnh trong đầu về một bữa ăn ngon mà bạn đang thèm. Trong những trường hợp khác, cái Tôi có thể khai thác một số năng lượng từ cái Nó (tâm trí nguyên thủy) để tìm kiếm các hoạt động liên quan đến mong muốn nhằm phân tán năng lượng dư thừa khỏi cái Nó. Theo ví dụ tương tự, nếu bạn thực sự không thể kiếm ra thức ăn để xoa dịu cơn đói của mình, thì thay vào đó, bạn có thể xem qua sách dạy nấu ăn hoặc duyệt qua blog công thức nấu ăn yêu thích của mình.

According to Freud’s theory, there is only so much libidinal energy available. When a lot of energy is devoted to suppressing urges via anticathexis, there is less energy for other processes.

Theo lý thuyết của Freud, chỉ có rất nhiều năng lượng tính dục có sẵn. Khi nhiều năng lượng được dành cho việc ngăn chặn sự thôi thúc thông qua anticathexis, thì sẽ có ít năng lượng hơn cho các quá trình khác.

Life Instincts and Death Instincts 

Bản năng sống và Bản năng chết

Freud also believed that much of human behavior was motivated by two driving instincts: life instincts and death instincts.

Freud cũng tin rằng, phần lớn hành vi của con người được thúc đẩy bởi hai bản năng cơ bản: bản năng sống và bản năng chết .

  • Life instincts (Eros) are those that relate to a basic need for survival, reproduction, and pleasure. They include such things as the need for food, shelter, love, and sex.
  • Bản năng sống (Eros) là những bản năng liên quan đến nhu cầu cơ bản để tồn tại, sinh sản và khoái cảm. Chúng bao gồm những thứ như nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, tình yêu và tình dục.
  • Death instincts (Thanatos) are the result of an unconscious wish for death, which Freud believed all humans have.Self-destructive behavior was one expression of the death drive, according to Freud. However, he believed that these death instincts were largely tempered by life instincts.
  • Bản năng chết (Thanatos) là kết quả của mong muốn được chết trong vô thức, mà Freud tin rằng tất cả mọi người đều có.Theo Freud, hành vi tự hủy hoại bản thân là một biểu hiện của khuynh hướng chết chóc. Tuy nhiên, ông tin rằng những bản năng chết này phần lớn được tôi luyện bởi bản năng sống.

Freud’s Theory of the Psyche

Lý thuyết tâm thần của Freud

In Freudian theory, the human mind is structured into two main parts: the conscious and unconscious mind. The conscious mind includes all the things we are aware of or can easily bring into awareness. The unconscious mind, on the other hand, includes all of the things outside of our awareness—all of the wishes, desires, hopes, urges, and memories that we aren’t aware of, yet continue to influence behavior.

Theo lý thuyết của Freud, tâm trí con người được cấu trúc thành hai phần chính: phần ý thức và phần vô thức . Phần ý thức bao gồm tất cả những điều chúng ta nhận thức được hoặc có thể dễ dàng đưa vào nhận thức. Mặt khác, phần vô thức bao gồm tất cả những thứ nằm ngoài nhận thức của chúng ta—tất cả những ước muốn, mong muốn, hy vọng, thôi thúc và ký ức mà chúng ta không nhận thức được, nhưng vẫn tiếp tục ảnh hưởng đến hành vi.

Freudian psychology compares the mind to an iceberg. The tip of the iceberg that is actually visible above the water represents just a tiny portion of the mind, while the huge expanse of ice hidden underneath the water represents the much larger unconscious.

Tâm lý học trường phái Freud so sánh tâm trí với một tảng băng trôi. Phần nổi của tảng băng nhìn thấy trên mặt nước chỉ đại diện cho một phần nhỏ của tâm trí, trong khi phần băng khổng lồ ẩn dưới nước đại diện cho phần vô thức lớn hơn nhiều.

There is some question as to whether the iceberg metaphor came from Freud himself or one of his biographers, as some researchers indicate that there was no mention of an iceberg in Freud’s writings.

Có một số câu hỏi đặt ra là liệu ẩn dụ tảng băng trôi đến từ chính Freud hay một trong những người viết tiểu sử của ông, vì một số nhà nghiên cứu chỉ ra rằng các bài viết của Freud chưa từng đề cập đến tảng băng trôi.

In addition to these two main components of the mind, Freudian theory also divides human personality into three major components: the id, ego, and superego.

Ngoài hai thành phần chính này của tâm trí, lý thuyết của Freud còn chia nhân cách con người thành ba thành phần chính: cái Nó, cái Tôi và cái Siêu Tôi .

  • The id is the most primitive part of the personality that is the source of all our most basic urges. The id is entirely unconscious and serves as the source of all libidinal energy.
  • Cái Nó là phần nguyên thủy nhất của nhân cách, là nguồn gốc của mọi thôi thúc cơ bản nhất của chúng ta. Cái Nó hoàn toàn vô thức và đóng vai trò là nguồn gốc của tất cả năng lượng tính dục.
  • The ego is the component of personality that deals with reality and helps ensure that the demands of the id are satisfied in ways that are realistic, safe, and socially acceptable.
  • Cái Tôi là thành phần của nhân cách đối mặt với thực tại và giúp đảm bảo rằng, các yêu cầu của cái Nó được thỏa mãn theo những cách thực tế, an toàn và được xã hội chấp nhận.
  • The superego is the part of the personality that holds all of the internalized morals and standards that we acquire from our parents, family, and society at large.
  • Siêu Tôi là một phần của nhân cách nắm giữ tất cả các chuẩn mực và đạo đức đã được nội tâm hóa mà chúng ta có được từ cha mẹ, gia đình và xã hội nói chung.

Freud’s Theory of Psychosexual Development 

Lý thuyết các giai đoạn phát triển tâm lý-tính dục của Freud

Freudian theory suggests that as children develop, they progress through a series of psychosexual stages. At each stage, the libido’s pleasure-seeking energy is focused on a different part of the body.

Lý thuyết của Freud cho rằng, khi trẻ em phát triển, chúng sẽ trải qua một loạt các giai đoạn tâm lý tính dục . Ở mỗi giai đoạn, năng lượng tìm kiếm khoái cảm của ham muốn tính dục được tập trung vào bộ phận khác nhau của cơ thể.

The five stages of psychosexual development are: 

Năm giai đoạn phát triển tâm lý tính dục là:

  1. The oral stage: The libidinal energies are focused on the mouth.
  2. The anal stage: The libidinal energies are focused on the anus.
  3. The phallic stage: The libidinal energies are focused on the penis or clitoris.
  4. The latent stage: A period of calm in which little libidinal interest is present.
  5. The genital stage: The libidinal energies are focused on the genitals.
  6. Giai đoạn môi miệng: Các năng lượng tính dục tập trung vào miệng.
  7. Giai đoạn hậu môn: Năng lượng tính dục tập trung vào hậu môn.
  8. Giai đoạn dương vật tượng trưng: Các năng lượng tính dục  tập trung vào dương vật hoặc âm vật.
  9. Giai đoạn ẩn tàng: Một giai đoạn nghỉ ngơi trong đó có ít hứng thú tình dục.
  10. Giai đoạn phát dục: Các năng lượng tính dục được tập trung vào bộ phận sinh dục.

The successful completion of each stage leads to a healthy personality as an adult. If, however, a conflict remains unresolved at any particular stage, the individual might remain fixated or stuck at that particular point of development.

Việc hoàn thành thành công từng giai đoạn dẫn đến một nhân cách lành mạnh khi trưởng thành. Tuy nhiên, nếu xung đột vẫn chưa được giải quyết ở bất kỳ giai đoạn cụ thể nào, thì cá nhân đó có thể vẫn bị cố định hoặc mắc kẹt tại điểm phát triển cụ thể đó.

A fixation can involve an over-dependence or obsession with something related to that phase of development. For example, a person with an “oral fixation” is believed to be stuck at the oral stage of development. Signs of an oral fixation might include excessive reliance on oral behaviors such as smoking, biting fingernails, or eating.

Một sự “cắm chốt” có thể liên quan đến sự phụ thuộc quá mức hoặc ám ảnh với điều gì đó liên quan đến giai đoạn phát triển đó. Ví dụ, một người có hiện tượng “cắm chốt ở giai đoạn môi miệng” được cho là bị mắc kẹt ở giai đoạn phát triển môi miệng. Các dấu hiệu của chứng nghiện miệng có thể bao gồm sự phụ thuộc quá mức vào các hành vi bằng miệng như hút thuốc, cắn móng tay hoặc ăn uống.

Freud’s Theory of Dream Analysis 

Lý thuyết phân tích giấc mơ của Freud

The unconscious mind played a critical role in all of Freud’s theories, and he considered dreams to be one of the key ways to take a peek into what lies outside our conscious awareness.

Tâm trí vô thức đóng một vai trò quan trọng trong tất cả các lý thuyết của Freud và ông coi giấc mơ là một trong những cách quan trọng để xem xét những gì nằm ngoài vùng có ý thức của chúng ta.

He dubbed dreams “the royal road to the unconscious” and believed that by examining dreams, he could see not only how the unconscious mind works but also what it is trying to hide from conscious awareness.

Ông gọi những giấc mơ là “con đường trực tiếp dẫn đến vô thức” và ông tin rằng, bằng cách kiểm tra những giấc mơ, ông có thể thấy cả cách thức hoạt động của vùng vô thức lẫn những gì nó đang cố gắng che giấu khỏi vùng có ý thức.

Freud believed the content of dreams could be broken down into two different types: 

Freud cho rằng nội dung của những giấc mơ có thể được chia thành hai loại khác nhau:

  • The manifest content of a dream included all the actual content of the dream—the events, images, and thoughts contained within the dream. The manifest content is essentially what the dreamer remembers upon waking.
  • Nội dung biểu hiện của một giấc mơ bao gồm tất cả nội dung thực tế của giấc mơ—các sự kiện, hình ảnh và suy nghĩ chứa đựng trong giấc mơ. Nội dung biểu hiện về cơ bản là những gì người mơ nhớ khi thức dậy.
  • The latent content, on the other hand, is all the hidden and symbolic meanings within the dream. Freud believed that dreams were essentially a form of wish fulfillment. By taking unconscious thoughts, feelings, and desires and transforming them into less threatening forms, people are able to reduce the ego’s anxiety.
  • Mặt khác, nội dung tiềm ẩn là tất cả những ý nghĩa ẩn giấu và tượng trưng trong giấc mơ. Freud tin rằng giấc mơ về cơ bản là một hình thức thực hiện ước muốn. Bằng cách lấy những suy nghĩ, cảm xúc và ham muốn vô thức và biến chúng thành những dạng ít đe dọa hơn, con người có thể giảm bớt sự lo lắng của cái Tôi.

Freud often utilized the analysis of dreams as a starting point in his free association technique. When working with a client, he would focus on a particular dream symbol, then use free association to see what other thoughts and images immediately came to the client’s mind. 

Freud thường sử dụng việc phân tích giấc mơ như một điểm khởi đầu trong kỹ thuật liên tưởng tự do của mình. Khi làm việc với một khách hàng, ông sẽ tập trung vào một biểu tượng giấc mơ cụ thể, sau đó sử dụng liên tưởng tự do để xem những suy nghĩ và hình ảnh nào khác ngay lập tức xuất hiện trong tâm trí khách hàng.

Freud’sTheory of Defense Mechanisms 

Lý thuyết về cơ chế phòng vệ của Freud

Even if you’ve never studied Freud’s theories before, you have probably heard the term “defense mechanisms.” When someone seems unwilling to face a painful truth, you might accuse them of being “in denial.” If they try to look for a logical explanation for unacceptable behavior, you might suggest that they are “rationalizing.”

Ngay cả khi bạn chưa từng nghiên cứu các lý thuyết của Freud trước đây, thì có lẽ bạn đã nghe thấy thuật ngữ “cơ chế phòng vệ”. Khi ai đó có vẻ không muốn đối mặt với một sự thật đau lòng, bạn có thể buộc tội họ đang phủ nhận.” Nếu họ cố gắng tìm kiếm lời giải thích hợp lý cho hành vi không thể chấp nhận được, bạn có thể cho rằng họ đang “hợp lý hóa”.

For instance, rationalizations for smoking might include “one cigarette won’t hurt me” or “if I quit, I’ll just gain weight.”

Ví dụ, việc hợp lý hoá cho việc hút thuốc có thể bao gồm “một điếu thuốc sẽ không làm hại tôi” hoặc “nếu tôi bỏ thuốc, tôi sẽ chỉ tăng cân.”

Denial and rationalization represent different types of defense mechanisms, or tactics that the ego uses to protect itself from anxiety. Some of the best-known mechanisms of defense include denial, repression, and regression, but there are many more.

Sự chối bỏ và hợp lý hóa đại diện cho các loại cơ chế phòng vệ hoặc chiến thuật khác nhau mà cái Tôi sử dụng để bảo vệ bản thân khỏi sự lo âu. Một số cơ chế phòng vệ nổi tiếng nhất là chối bỏ i, kìm nén và thoái lui, ngoài ra vẫn còn nhiều cơ chế khác nữa.

Freud’s Theory of Female Psychology

Lý thuyết tâm lý phụ nữ của Freud

Freud’s perspective on women was, and continues to be, one of his most controversial. One of his theories relating to female psychology is known as the Electra complex, also sometimes referred to as penis envy. 

Quan điểm của Freud về phụ nữ đã và đang tiếp tục là một trong những quan điểm gây tranh cãi nhất của ông. Một trong những lý thuyết của ông liên quan đến tâm lý phụ nữ được gọi là phức cảm Electra, đôi khi còn được gọi là sự ghen tị dương vật.

According to Freud, females start out close to their mothers. But once they realize they don’t have a penis, they start to hate their moms for mutilating them, then become close to their dad. At the same time, females start to imitate their mom because they fear the loss of her affection. 

Theo Freud, ban đầu các bé gái gần gũi với mẹ của chúng. Nhưng một khi nhận ra mình không có dương vật, chúng bắt đầu ghét mẹ vì đã cắt xẻo dương vật của mình rồi trở nên thân thiết với bố. Đồng thời, các bé gái bắt đầu bắt chước mẹ của chúng vì chúng sợ mất đi tình cảm của mẹ.

The Electra complex is the opposite of the Oedipus complex, which Freud contended is when a male child develops a sexual attachment to his mother, viewing his father as a sexual rival.

Mặc cảm Electra đối lập với mặc cảm Oedipusmà Freud cho rằng đó là khi một đứa trẻ nam phát triển sự gắn bó tình dục với mẹ của mình, coi cha mình như một đối thủ tình dục.

Freud’s Theory of Religion

Lý thuyết về tôn giáo của Freud

Freud theorized that religious beliefs are essentially delusions, and also that turning away from these types of ideologies is preferable because religion does not lead to happiness and fulfillment; in fact, it is a belief structure not based on evidence.

Freud đưa ra giả thuyết rằng, niềm tin tôn giáo về cơ bản là ảo tưởng, và việc quay lưng lại với những loại hệ tư tưởng này là tốt hơn, vì tôn giáo không dẫn đến hạnh phúc và viên mãn; mà thực chất, tôn giáo là một cấu trúc tín ngưỡng không có căn cứ.

Freud felt that a person’s religious views were, at least in part, a result of their relationship with their father. He believed that people tend to depict their idea of a “God” based on the qualities and traits of the father figure in their life and that these qualities changed as their relationship with their father changed.

Freud cảm thấy rằng, quan điểm tôn giáo của một người, ít nhất một phần, là kết quả của mối quan hệ của họ với cha mình. Ông tin rằng mọi người có xu hướng miêu tả ý tưởng của họ về một “Chúa” dựa trên những phẩm chất và đặc điểm từ hình tượng người cha trong cuộc sống của họ và những phẩm chất này sẽ thay đổi khi mối quan hệ của họ với cha mình thay đổi.

It is believed that Freud’s theory of religion was influenced by his relationship with his own father. Freud had a Jewish upbringing, which he said he had no desire to change, yet he also stated that he was “completely estranged from the religion of his fathers—as well as from every other religion.”

Người ta tin rằng, lý thuyết về tôn giáo của Freud bị ảnh hưởng bởi mối quan hệ của ông với chính cha mình. Freud thừa hưởng nền giáo dục Do Thái, mà ông nói rằng ông không muốn thay đổi, nhưng ông cũng nói rằng ông “hoàn toàn xa lạ với tôn giáo của cha mình — cũng như mọi tôn giáo khác.”

Impact of Freudian Theory

Tác động của lý thuyết Freud

While Freud’s theories have been widely criticized, they are still important because his work has made contributions to psychology as we know it today.

Mặc dù các lý thuyết của Freud gặp rất nhiều chỉ trích, nhưng chúng vẫn rất quan trọng vì công trình của ông đã có những đóng góp cho tâm lý học như chúng ta biết ngày nay.

Psychotherapy

Tâm lý trị liệu

Many contemporary psychologists do not give credence to Freud’s ideas, but the theories remain important. And research has validated the effectiveness of various forms of talk therapy, such as one finding that psychodynamic therapy and cognitive behavioral therapy were both effective for treating anxiety in college-age students.

Nhiều nhà tâm lý học đương đại không tin vào ý tưởng của Freud, nhưng các lý thuyết vẫn quan trọng. Và nghiên cứu đã xác nhận tính hiệu quả của các hình thức trị liệu trò chuyện khác nhau, chẳng hạn như một phát hiện rằng, liệu pháp tâm động học và liệu pháp hành vi nhận thức đều có hiệu quả để điều trị chứng lo âu ở sinh viên đại học.

Freud’s belief that mental problems could be resolved by actually talking about them helped revolutionize psychotherapy.

Niềm tin của Freud rằng, các vấn đề tâm thần có thể được giải quyết bằng cách thực sự nói về chúng đã giúp cách mạng hóa lĩnh vực tâm lý trị liệu.

Freud’s theories have also sparked a major change in how we view mental illness by suggesting that not all psychological problems have physiological causes.

Các lý thuyết của Freud cũng đã tạo ra một sự thay đổi lớn trong cách chúng ta nhìn nhận bệnh tâm lý bằng cách cho rằng không phải tất cả các vấn đề tâm lý đều có nguyên nhân sinh lý.

Science 

Khoa học

Freud’s contributions have also impacted the foundational science of what we know about psychology today. His idea that our thoughts are largely unconscious has withstood scientific scrutiny, for instance, retaining their importance in understanding human development and behavior.

Những đóng góp của Freud cũng đã tác động đến khoa học nền tảng của những gì chúng ta biết về tâm lý học ngày nay. Ý tưởng của ông rằng suy nghĩ của chúng ta phần lớn là vô thức đã được khoa học xem xét kỹ lưỡng. Ví dụ như, vẫn giữ được tầm quan trọng của chúng trong việc tìm hiểu sự phát triển và hành vi của con người.

Culture 

Văn hóa

Freud has even influenced thoughts about how society has formed into what it is today. Some believe that his theories help explain some of the successes of modern society while also explaining some of its failures.

Freud thậm chí còn có ảnh hưởng đến những suy nghĩ về cách xã hội đã hình thành như ngày nay. Một số người tin rằng, lý thuyết của ông giúp giải thích một số thành công của xã hội hiện đại, đồng thời cũng giải thích một số thất bại của nó.

A Word From Verywell

Đôi  lời từ Verywell

To understand where psychology is today, it is essential to take a look at where we’ve been and how we got here. Freud’s work provides insight into an important movement in psychology that helped transform how we think about mental health and how we approach psychological disorders.

Để biết được vị trí của tâm lý học đang ở đâu hiện nay, ta cần phải tìm kiếm vị trí của chúng ta và làm thế nào chúng ta đến được đây. Công trình của Freud cung cấp cái nhìn sâu sắc về một bước tiến quan trọng trong lĩnh vực tâm lý học, giúp thay đổi cách chúng ta nghĩ về sức khỏe tâm thần và cách chúng ta tiếp cận các rối loạn tâm lý .

By studying Freud’s theories and those that came after, you gain a better understanding of psychology’s fascinating history. Many terms such as defense mechanism, Freudian slip, and anal retentive have become a part of our everyday language. By learning about his work and theories, you can understand how these ideas and concepts became woven into the fabric of popular culture.

Bằng cách nghiên cứu các lý thuyết của Freud và những lý thuyết xuất hiện sau đó, bạn sẽ hiểu rõ hơn về lịch sử hấp dẫn của tâm lý học. Nhiều thuật ngữ chẳng hạn như cơ chế phòng vệ, Freudian slip (lỡ lời),kìm nén đại tiện đã trở thành một phần trong ngôn ngữ hàng ngày của chúng ta. Bằng cách tìm hiểu về công trình và lý thuyết của ông, bạn có thể hiểu làm thế nào những ý tưởng và khái niệm này đã trở nên phổ biến trong văn hóa đại chúng.

FREQUENTLY ASKED QUESTIONS

CÁC CÂU HỎI THƯỜNG GẶP

How did Freud develop his theory?

Freud đã phát triển lý thuyết của mình như thế nào? 

After starting his career as a doctor at Vienna General Hospital, Freud entered private practice, specializing in the treatment of psychological disorders. It was during this time in private practice that Freud started to develop his theories.

Sau khi bắt đầu sự nghiệp với tư cách là bác sĩ tại Bệnh viện Đa khoa Vienna, Freud bắt đầu hành nghề tư nhân, chuyên điều trị các rối loạn tâm lý. Chính trong thời gian hành nghề tư nhân này, Freud bắt đầu phát triển các lý thuyết của mình.

These theories were later refined through Freud’s associations with Josef Breuer, a colleague and friend who was treating a patient with hysteria. Based on this case, Freud developed the theory that many neuroses originate from trauma that has transitioned from the conscious mind to the unconscious mind.

Những lý thuyết này sau đó đã được hoàn thiện thông qua mối quan hệ của Freud với Josef Breuer, một đồng nghiệp và người bạn đang điều trị cho một bệnh nhân mắc chứng rối loạn phân ly. Dựa trên trường hợp này, Freud đã phát triển lý thuyết rằng, chứng rối loạn thần kinh chức năng bắt nguồn từ sang chấn  mà đã chuyển từ vùng có ý thức sang vùng vô thức.

How did Erikson’s theory differ from Freud’s?

Lý thuyết của Erikson khác với lý thuyết của Freud như thế nào?

While Freud’s psychosexual theory is rooted in basic needs and physiological driving forces, Erikson’s psychosocial theory places more emphasis on one’s environment.

Trong khi lý thuyết tâm lý tính dục của Freud bắt nguồn từ nhu cầu cơ bản và động lực sinh lý, thì lý thuyết tâm lý xã hội của Erikson chú trọng nhiều hơn vào môi trường của một người.

Erikson’s and Freud’s theories also vary in terms of stages of development. For instance, the first stage of development according to Freudian theory is the oral stage, while the first stage of development according to Erikson’s theory is trust versus mistrust.

Các lý thuyết của Erikson và Freud cũng khác nhau về các giai đoạn phát triển. Ví dụ, giai đoạn đầu tiên của sự phát triển theo lý thuyết của Freud là giai đoạn môi miệng, trong khi giai đoạn đầu tiên của sự phát triển theo lý thuyết của Erikson là giai đoạn tin tưởng và hoài nghi.

Another difference is the length of development, with Freud believing that most development occurs in early childhood and Erikson contending that people continue to develop well into their adult years. 

Một điểm khác biệt nữa là độ dài của quá trình phát triển, Freud tin rằng hầu hết sự phát triển xảy ra trong thời thơ ấu còn Erikson cho rằng mọi người tiếp tục phát triển bình thường trong những năm trưởng thành của họ.

What are some positive qualities of Freud’s theory?

Một số phẩm chất tích cực của lý thuyết của Freud là gì?

Freud’s theory has shaped the field of psychology, both in theory and treatment applications. It has also inspired others in the field to better understand the mind and how it develops, developing their own theories in turn. Without Freud, we might not have talk therapy, which research supports for helping people manage and treat mental health issues such as anxiety and depression.

Học thuyết của Freud đã định hình cả lý thuyết và ứng dụng trong trị liệu của ngành tâm lý học. Lý thuyết của ông cũng truyền cảm hứng cho các nhà tâm lý học khác trong việc hiểu rõ hơn về tâm trí và cách tâm trí phát triển, và từ đó phát triển học thuyết của chính họ. Nếu không có Freud, có thể chúng ta sẽ không biết tới liệu pháp trò chuyện – đã được chứng minh là có tác dụng giúp người bệnh kiểm soát và điều trị các vấn đề sức khỏe tinh thần như lo âu hay trầm cảm. 

Why is Freud’s psychosexual theory of personality so controversial?

Tại sao lý thuyết tâm lý tính dục của Freud về nhân cách lại gây tranh cãi như vậy?

Freud’s psychosexual theory is hard to test scientifically, leaving questions about its validity. Another concern is that the theory is based on case studies versus research. Some have issues with Freud’s theory being focused more on male psychosexual development, offering very little insight into females. 

Lý thuyết tâm lý tính dục của Freud rất khó để kiểm tra một cách khoa học, để lại những câu hỏi về tính hợp lệ của nó. Một mối quan tâm khác là lý thuyết dựa trên nghiên cứu trường hợp so với lý thuyết dựa trên nghiên cứu. Một số vấn đề khác trong lý thuyết của Freud là tập trung nhiều vào sự phát triển tâm lý tính dục của nam giới hơn, và cung cấp rất ít thông tin chi tiết về nữ giới.

It also refers to homosexual preferences as a deviation of normal psychosexual development, though many psychologists today feel that sexual orientation is more biological in nature. 

Nó cũng đề cập đến sở thích đồng tính luyến ái như một sự sai lệch trong sự phát triển tâm lý-tính dục bình thường, mặc dù nhiều nhà tâm lý học ngày nay cảm thấy rằng xu hướng tình dục có bản chất sinh học hơn.

Nguồn: Link

Để lại một bình luận