Xu hướng tính dục

Sexual Orientation

Xu hướng tính dục là xu hướng của một người nào đó đáp ứng tình dục đối với bạn tình nam hoặc nữ hoặc cả hai hoặc không. Xu hướng tính dục của mọi người là khác nhau, cũng như là việc họ có sở thích ăn uống hoặc các động lực khác nhau. Những người thích bạn tình cùng giới có khuynh hướng tình dục đồng giới (đồng tính nam hoặc đồng tính nữ).

Sexual orientation is someone’s tendency to respond sexually to male or female partners or both or neither. People vary in their sexual orientations, just as they do in their food preferences and other motivations. Those who prefer partners of their own sex have a homosexual (gay or lesbian) orientation.

Hành vi đồng tính hoặc song tính cũng được quan sát thấy ở hàng trăm loài động vật. Các nhà sinh vật học trước đây từng cho rằng đồng tính chỉ xảy ra ở các động vật nuôi nhốt, chỉ có ở những động vật có nội tiết tố bất thường, hoặc chỉ có khi không có bạn tình khác giới, nhưng bằng chứng đã bác bỏ những giả định này (Bagemihl, 1999). Nếu “tự nhiên” nghĩa là một cái gì đó xảy ra trong tự nhiên, thì đồng tính là tự nhiên.

Homosexual or bisexual behavior has also been observed in hundreds of animal species. Biologists previously assumed that homosexuality occurred only in captive animals, only in hormonally abnormal animals, or only when partners of the other sex were unavailable, but the evidence has refuted these assumptions (Bagemihl, 1999). If “natural” means that something occurs in nature, then homosexuality is natural.

Có bao nhiêu người có xu hướng đồng tính? Bạn có thể nghe thấy các tuyên bố như là “10%” Con số đó được đưa ra từ báo cáo của Kinsey rằng khoảng 13% đàn ông và 7% phụ nữ ông đã phỏng vấn năm 1940 và 1950 nói rằng họ có xu hướng đồng tính. Tuy nhiên, Kinsey không có mẫu đại diện hoặc ngẫu nhiên, các khảo sát về sau cho thấy số liệu thấp hơn.

How many people have a homosexual orientation? You may have heard claims of “10 percent.” That number is derived from Kinsey’s report that about 13 percent of the men and 7 percent of the women he interviewed in the 1940s and 1950s stated a predominantly homosexual orientation. However, Kinsey did not have a random or representative sample, and later surveys have reported lower numbers.

Trong một mẫu ngẫu nhiên khoảng 3,500 người lớn ở Hoa Kỳ, 2.8% nam giới và 1.4% phụ nữ mô tả bản thân là có xu hướng đồng tính (đồng tính nam hoặc đồng tính nữ) (Laumann et al., 1994). Như hình 11.17 chứng minh, các kết quả phụ thuộc vào việc diễn đạt các câu hỏi. Nhiều người không coi mình là đồng tính nam hoặc đồng tính nữ cho biết có ít nhất một trải nghiệm tình dục đồng giới, hoặc nhiều hơn một lần ở lứa tuổi thiếu niên (đặc biệt là nam giới) (Laumann et al., 1994). Vẫn còn nhiều người nói rằng họ cảm thấy hấp dẫn tình dục đối với một người đồng giới (Dickson, Paul, & Herbison, 2003).

In a random sample of 3,500 U.S. adults, 2.8 percent of men and 1.4 percent of women described themselves as having a homosexual (gay or lesbian) orientation (Laumann et al., 1994). As ▼ Figure 11.17 demonstrates, the results depend on the phrasing of the question. Many people who do not consider themselves gay or lesbian have had at least one adult homosexual experience, and more (especially males) had one in early adolescence (Laumann et al., 1994). Still more say they have felt some sexual attraction to a member of their own sex (Dickson, Paul, & Herbison, 2003).

Một số khảo sát lớn gần đây báo cáo rằng 1 đến 6% nam giới ở Hoa Kỳ có xu hướng đồng tính nam hoặc song tính (Billy, Tanfer, Grady, & Klepinger, 1993; Cameron, Proctor, Coburn, & Forde, 1985; Fay et al., 1989). Các cuộc khảo sát ở các nước khác báo cáo tỉ lệ tương tự hoặc thấp hơn một chút như ơ rhình 11.18 (Lzazola-Licea, Gortmaker, Tolbert, De Gruttola, & Mann, 2000; Sandfort, de Graaf, Bijl, & Schnabel, 2001; Spira & Bajos, 1993; Wellings, Field, Johnson, & Wadsworth, 1994).

Several other large surveys reported that 1 to 6 percent of U.S. men have a gay or bisexual orientation (Billy, Tanfer, Grady, & Klepinger, 1993; Cameron, Proctor, Coburn, & Forde, 1985; Fay et al., 1989). Surveys in other countries have reported similar or slightly lower percentages, as shown in ▼ Figure 11.18 (Lzazola-Licea, Gortmaker, Tolbert, De Gruttola, & Mann, 2000; Sandfort, de Graaf, Bijl, & Schnabel, 2001; Spira & Bajos, 1993; Wellings, Field, Johnson, & Wadsworth, 1994).

Sự khác nhau giữa nam và nữ

Differences between Men and Women

Xu hướng tính dục khác nhau giữa nam và nữ ở một vài khía cạnh. Hầu hết nam giới nhận thức được là đồng tính hay dị tính ở giai đoạn đầu tuổi vị thành niên, và những thay đổi sau đó hiếm xảy ra. Hầu hết (không phải tất cả) đồng tính nam có tiền sử về các hành vi “không phù hợp với giới tính” trong thời thơ ấu (Ví dụ như là kiểu phụ nữ) (Rieger, Linsenmeier, Gygax, & Bailey, 2008), mà các nhà quan sát xác nhận bằng cách xem các video tại nhà của gia đình. Ngược lại,  một số lượng lớn phụ nữ có xu hướng đồng tính (đồng tính nữ) khi còn trẻ mà không có dấu hiệu nào trước đó (Diamond, 2007). Các hành vi không phù hợp với giới tính sớm của các bé gái (ví dụ kiểu nam tính) ít dự báo về xu hướng tính dục ở tuổi trưởng thành (Udry & Chantala, 2006).

Sexual orientation differs on the average between men and women in several regards. Most men become aware of being homosexual or heterosexual by early adolescence, and later changes are rare. Most (not all) homosexual men have a history of childhood “gendernonconforming” (i.e., feminine-type) behaviors (Rieger, Linsenmeier, Gygax, & Bailey, 2008), which observers confirmed by watching the family’s home videos. In contrast, a fair number of women develop a homosexual (lesbian) orientation in young adulthood without any previous indications (Diamond, 2007). Girls’ early gender-nonconforming (i.e., masculine-type) behaviors are relatively poor predictors of sexual orientation in adulthood (Udry & Chantala, 2006).

Ngoài ra, phụ nữ bị thu hút tình dục bởi cả nam và nữ hơn là nam giới. Các nhà tâm lý thường nghĩ rằng song tính (hấp dẫn cả hai giới) chỉ là một sự chuyển đổi tạm thời bởi một người nào đó thay đổi giữa việc hấp dẫn đồng giới và khác giới. Tuy nhiên, một nghiên cứu chiều dọc cho thấy rằng, song tính nữ giới thường ổn định sau nhiều năm, và có nhiều phụ nữ có xu hướng song tính hơn (Diamond, 2008). Tỉ lệ song tính nam phụ thuộc vào cách chúng ta định nghĩa. Nếu song tính bao gồm có quan hệ tình dục với ít nhất một người đàn ông và một người phụ nữ, thì nó khá phổ biến. Nhưng nếu nó bao gồm những tưởng tượng tình dục phong phú và hưng phấn tình dục đối với cả nam và nữ, thì nó phổ biến ít hơn (Rieger, Chivers, & Bailey, 2005; Rieger et al., 2013).

Also, women are more likely than men to experience some sexual attraction to both men and women. Psychologists used to think that bisexuality (attraction to both sexes) was just a temporary transition by someone switching between homosexual and heterosexual attraction. However, a longitudinal study found that female bisexuality is usually stable over many years, and more women switch to bisexuality than from it (Diamond, 2008). The prevalence of male bisexuality depends on how we define it. If bisexuality consists merely in having had sex with at least one man and at least one woman, then it is fairly common. But if it consists of having sexual fantasies and sexual excitement toward both men and women, then it is considerably less common (Rieger, Chivers, & Bailey, 2005; Rieger et al., 2013).

Nghiên cứu tình dục ở nữ giới đặt ra một số điều thú vị cho các nhà nghiên cứu. Nghiên cứu về nam giới thì dễ bởi vì dương vật cương cứng đồng nghĩa với việc kích thích tình dục. Để biết một người đàn ông bị kích thích tình dục bởi nam hay nữ, hãy gắn một thiết bị vào dương vật anh ta và đo sự cương cứng trong khi anh ta xem các hình ảnh hoặc phim về đàn ông hoặc phụ nữ khỏa thân. Nếu bạn muốn biết liệu một người có thể có xu hướng bạo dâm hay không, hãy cho xem những bức ảnh về bạo dâm tình dục và đo độ cương cứng (Seto, Lalumière, Harris, & Chivers, 2012). Do đó, các nhà nghiên cứu kiểm tra phụ nữ bằng cách đo dịch tiết âm đạo khi họ xem phim khiêu dâm. Hầu hết phụ nữ cho thấy phản ứng tương đồng đối với những hình ảnh nam hoặc nữ khỏa thân, bất kể họ mô tả mình là dị tính hay đồng tính, và bất chấp những phản đối trong một số trường hợp rằng họ không thích bất kỳ bức tranh nào (Chivers, Rieger, Latty, & Bailey, 2004; Peterson, Janssen, & Laan, 2010). Ban đầu, các nhà nghiên cứu nghiêng về việc tin vào những phản ứng sinh lý, cho rằng hầu hết tất cả phụ nữ ít nhất có khả năng là song tính. Nhưng nghiên cứu sau đó phát hiện ra rằng phụ nữ cũng tiết ra dịch âm đạo để phản ứng lại những mô tả về hành vi cưỡng hiếp bạo lực (Suschinsky & Lalumière, 2011). Rõ ràng là việc tiết dịch âm đạo không đồng nghĩa với kích thích tình dục ở phụ nữ, theo cách dương vật cương cứng như ở đàn ông. Các nhà nghiên cứu suy đoán rằng dịch âm đạo có thể là phản ứng tự vệ để chuẩn bị cho việc quan hệ tình dục ở phụ nữ, bất kể là tự nguyện hay không.

Studying women’s sexuality raised some interesting problems for researchers. Studying men is easy, because penis erection is synonymous with sexual arousal. To find out whether a man is sexually excited by males or females, attach a device to his penis and measure erections while he views photos or films of naked men or women. If you want to know whether someone might be prone to sadistic sex, show pictures of sadistic sex and measure a possible erection (Seto, Lalumière, Harris, & Chivers, 2012). So, researchers tested women by measuring vaginal secretions in response to pornographic films. Most women showed about equal responses to depictions of naked men or women, regardless of whether they described themselves as heterosexual or lesbian, and despite protestations in some cases that they didn’t enjoy any of the pictures (Chivers, Rieger, Latty, & Bailey, 2004; Peterson, Janssen, & Laan, 2010). At first, researchers were inclined to trust the physiological responses, suggesting that nearly all women are at least potentially bisexual. But then later research found that women also produced vaginal secretions in response to descriptions of violent rape (Suschinsky & Lalumière, 2011). Evidently vaginal secretions are not synonymous with sexual arousal for women, the way penis erections are for men. The researchers speculated that vaginal secretions may be a defensive reaction to prepare the woman for sexual contact, regardless of whether or not it is voluntary.

Những ảnh hưởng có thể có đối với xu hướng tính dục

Possible Influences on Sexual Orientation

Tại sao một số người lại dị tính và một số lại đồng tính? Các nhà nghiên cứu hiện tại cho rằng yếu tố di truyền góp phần vào xu hướng tính dục đối với cả nam và nữ.  Hình 11.19 chỉ ra các kết quả nghiên cứu liên quan đến đồng tính ở các cặp song sinh và những họ hàng khác của các cặp đồng tính nam hoặc đồng tính nữ trưởng thành (Bailey & Pillard, 1991; Bailey, Pillard, Neale, & Agyei, 1993). Lưu ý rằng đồng tính phổ biến hơn ở các cặp song sinh đơn hợp tử (cùng trứng) hơn là các cặp song sinh dị hợp tử. Nghiên cứu khác với lượng mẫu nhỏ hơn cho thấy cùng xu hướng (Kendler, Thornton, Gilman, & Kessler, 2000).

Why are some people heterosexual and others homosexual? The available research suggests that genetic factors contribute to sexual orientation for both men and women. ▼ Figure 11.19 shows the results of studies concerning homosexuality in twins and other relatives of adult gays and lesbians (Bailey & Pillard, 1991; Bailey, Pillard, Neale, & Agyei, 1993). Note that homosexuality is more prevalent in their monozygotic (identical) twins than in their dizygotic (fraternal) twins. Another study with a smaller sample showed the same trends (Kendler, Thornton, Gilman, & Kessler, 2000).

Tuy nhiên, một nghiên cứu của Thụy Điển hỏi về “bất kỳ hoạt động tình dục đồng giới nào” thay vì xu hướng tính dục được tìm thấy ảnh hưởng di truyền nhỏ hơn, ít ấn tượng hơn (Långström, Rahman, Carlström, & Lichtenstein, 2010). Kết luận từ những nghiên cứu này và các nghiên cứu khác rằng di truyền có ảnh hưởng đến xu hướng tính dục, nhưng không chắc chắn về mức độ ảnh hưởng.

However, a Swedish study that asked about “any homosexual activity” rather than sexual orientation found a smaller, less impressive genetic influence (Långström, Rahman, Carlström, & Lichtenstein, 2010). The conclusion from these studies and others is that genes do influence sexual orientation, but the magnitude of the influence is uncertain.

Một nghiên cứu xuất bản vào năm 1993 đã báo cáo rằng có mối liên hệ giữa đồng tính và một gen trên nhiễm sắc thể X, cho thấy sự di truyền từ phía người mẹ trong gia đình (Hamer, Hu, Magnuson, Hu, & Pattatucci, 1993). Một số nghiên cứu sau đó đã thất bại trong việc lặp lại phát hiện này, nhưng gần đây có một nghiên cứu lớn đã tìm thấy sự liên quan giữa đồng tính với gen đó, mặc dù ảnh hưởng là nhỏ (Sanders et al., 2015).

A study published in 1993 reported a link between homosexuality and a gene on the X chromosome, indicating inheritance from the mother’s side of the family (Hamer, Hu, Magnuson, Hu, & Pattatucci, 1993). Several later studies failed to replicate this finding, but a large, more recent study again linked homosexuality to that gene, although the effect was small (Sanders et al., 2015).

Dữ liệu về di truyền học đặt ra một câu hỏi về quá trình tiến hóa: Làm thế nào một gen gia tăng tình trạng đồng tính lại có thể phổ biến rộng rãi? Bất kỳ gen nào làm giảm khả năng tái sản xuất đều trở nên hiếm. Một giả thuyết cho rằng những người đồng tính không có con riêng có thể giúp anh chị em của họ nuôi dạy con cái, do đó di truyền một số gen của họ. Hầu hết những người đồng tính nam không đặc biệt giúp đỡ được người thân của họ ở Hoa Kỳ, nhưng ở Samoa thì lại giúp ích nhiều hơn bình thường (Bobrow & Bailey, 2001; Vasey & VanderLaan, 2010). Một ý kiến ​​khác cho rằng họ hàng của những người đồng tính nam có thể có gia đình đông đúc hơn bình thường (Camperio-Ciani, Corna, & Capiluppi, 2004; Schwartz et al., 2010). Tuy nhiên, một ước tính phổ biến là đồng tính nam trung bình có 1/5 số con so với đàn ông dị tính bình thường, và sẽ thật ngạc nhiên nếu các anh chị em có thêm con để bù đắp cho sự sụt giảm này. Một khả năng khác là xu hướng tính dục phụ thuộc vào di truyền biểu sinh – sự kích hoạt hoặc bất hoạt của một gen hơn là một đột biến di truyền (Rice, Friberg, & Gavrilets, 2012).

The data on genetics raise an evolutionary question: How could a gene that increases homosexuality be widespread? Any gene that decreases the probability of reproducing becomes rare. One hypothesis is that homosexual people who have no children of their own might help their brothers and sisters rear children, thus passing on some of their genes. Most gay men are not especially helpful to their relatives in the United States, but they are more helpful than average in Samoa (Bobrow & Bailey, 2001; Vasey & VanderLaan, 2010). Another idea is that relatives of gay men may have larger than average families (Camperio-Ciani, Corna, & Capiluppi, 2004; Schwartz et al., 2010). However, a common estimate is that the average homosexual man has one-fifth as many children as the average heterosexual man, and it would be surprising if the brothers and sisters have enough extra children to offset this decrease. Another possibility is that sexual orientation depends on epigenetics— the activation or inactivation of a gene rather than a genetic mutation (Rice, Friberg, & Gavrilets, 2012).

Một yếu tố khác trong xu hướng tính dục là do sinh học nhưng không phải do di truyền: Xác suất có xu hướng tính dục đồng giới cao hơn một chút ở những người đàn ông có anh trai. Có chị gái hoặc anh trai nuôi thì không tạo ra sự khác biệt. Không có bất kỳ sự khác biệt nào cho dù anh trai sống cùng nhà với em trai hay ở một nơi khác. Điều quan trọng là liệu người mẹ trước đó đã sinh thêm một đứa con trai hay không (Bogaert, 2006). Một giả thuyết để giải thích xu hướng này là con trai đầu lòng đôi khi khiến hệ thống miễn dịch của người mẹ tạo ra các kháng thể làm thay đổi sự phát triển của các con trai sau này (Bogaert, 2003).

Another factor in sexual orientation is biological but not genetic: The probability of a homosexual orientation is slightly elevated among men who have an older brother. Having an older sister doesn’t make a difference, nor does having an older adopted brother. It also doesn’t make any difference whether the older brother lived in the same house with the younger brother or somewhere else. What matters is whether the mother had previously given birth to another son (Bogaert, 2006). One hypothesis to explain this tendency is that the first son sometimes causes the mother’s immune system to build up antibodies that alter development of later sons (Bogaert, 2003).

Bất kể cơ sở ban đầu là di truyền, môi trường trước khi sinh hay thứ gì khác, câu hỏi đặt ra là cơ thể khác biệt như thế nào. Mức độ hormone trưởng thành không có tính quyết định. Hầu hết những người đồng tính trưởng thành có mức testosterone và estradiol bình thường. Việc thay đổi nồng độ hormone của một người nào đó sẽ làm thay đổi mức độ ham muốn tình dục nhưng không làm thay đổi xu hướng tính dục (Tuiten và cộng sự, 2000). Tương tự, việc thay đổi mức insulin hoặc glucose sẽ ảnh hưởng đến cảm giác đói của bạn nhưng ít ảnh hưởng đến những gì bạn nghĩ là thức ăn ngon.

Regardless of whether the original basis is genetics, prenatal environment, or something else, the question arises of how the body differs. Adult hormone levels are not decisive. Most adult homosexual people have normal levels of testosterone and estradiol. Altering someone’s hormone levels alters the strength of the sex drive but not sexual orientation (Tuiten et al., 2000). By analogy, changing your insulin or glucose levels affects your hunger but has little effect on what you consider good food.

Tuy nhiên, có thể các hormone sinh dục trước khi sinh ảnh hưởng đến xu hướng tính dục sau này (McFadden, 2008). Có lẽ, nếu có, chúng có một số ảnh hưởng đến não bộ. Một nghiên cứu được trích dẫn rộng rãi và thường bị hiểu nhầm đã báo cáo một sự khác biệt nhỏ nhưng có thể đo lường được giữa não bộ của những người đồng tính nam và dị tính. Hãy xem xét bằng chứng.

However, it is possible that prenatal sex hormones influence later sexual orientation (McFadden, 2008). Presumably, if they do, they have some effect on the brain. One widely quoted and often misunderstood study reported a small but measurable difference between the brains of homosexual and heterosexual men. Let’s examine the evidence.

Bằng chứng là gì? what’s the evidence?

Xu hướng tính dục và giải phẫu não – Sexual Orientation and Brain Anatomy

Các nghiên cứu trên động vật đã chứng minh rằng một phần của vùng dưới đồi trước ở nam giới thường lớn hơn ở nữ giới. Vùng não này cần thiết cho việc biểu thị hoạt động tình dục điển hình của nam giới ở nhiều loài động vật có vú và kích thước của nó phụ thuộc vào các hormone trước khi sinh. Phần trước của vùng dưới đồi có thể khác nhau giữa nam giới đồng tính và dị tính?

Animal studies demonstrated that one section of the anterior hypothalamus is generally larger in males than in females. This brain area is necessary for the display of male-typical sexual activity in many mammalian species, and its size depends on prenatal hormones. Might part of the anterior hypothalamus differ between homosexual and heterosexual men?

Giả thuyết INAH3, một cụm tế bào thần kinh ở vùng dưới đồi trước, về trung bình có kích thước ở não của những người dị tính lớn hơn so với người đồng tính nam hoặc dị tính nữ.

Hypothesis INAH3, a cluster of neurons in the anterior hypothalamus, will be larger on average in the brains of heterosexual than homosexual men or heterosexual women.

Phương pháp Simon LeVay (1991) kiểm tra não bộ của 41 người trưởng thành đã qua đời ở độ tuổi từ 26 đến 59. Trong nghiên cứu chỉ ra AIDS là nguyên nhân gây tử vong cho tất cả 19 người đồng tính nam, 6 trong số 16 người dị tính nam và 1 trong 6 người dị tính nữ. Không có não bộ của phụ nữ đồng tính. LeVay đã đo kích thước của bốn cụm tế bào thần kinh ở vùng dưới đồi trước, trong đó có hai cụm có sự khác biệt về giới tính là phổ biến và hai cụm là giống nhau giữa cả hai giới.

Method Simon LeVay (1991) examined the brains of 41 adults who died at ages 26 to 59. AIDS was the cause of death for all 19 of the homosexual men in the study, 6 of the 16 heterosexual men, and 1 of the 6 heterosexual women. No brains of homosexual women were available. LeVay measured the sizes of four clusters of neurons in the anterior hypothalamus, including two clusters for which sex differences are common and two that are the same between the sexes.

Kết quả Ba trong số bốn cụm tế bào thần kinh không có sự khác biệt về kích thước giữa các nhóm mà LeVay đã nghiên cứu. Tuy nhiên, diện tích INAH3 trung bình lớn gấp đôi ở nam giới dị tính so với đồng tính và cùng kích thước ở đồng tính nam như ở phụ nữ dị tính. ▲ Hình 11.20 cho thấy kết quả của hai cá thể đại diện. Kích thước của vùng não này tương đương ở những người đàn ông dị tính tử vong do AIDS cũng như ở những người đàn ông dị tính tử vong do các nguyên nhân khác, vì vậy AIDS có lẽ không kiểm soát được kích thước của vùng não này.

Results Three of the four neuron clusters did not consistently vary in size among the groups LeVay studied. However, area INAH3 was on the average about twice as large in heterosexual men as it was in homosexual men and about the same size in homosexual men as in heterosexual women. ▲ Figure 11.20 shows results for two representative individuals. The size of this area was about the same in heterosexual men who died of AIDS as in heterosexual men who died of other causes, so AIDS probably did not control the size of this area.

Giải thích Những kết quả này cho thấy kích thước trung bình của vùng INAH3 có thể liên quan đến xu hướng tính dục khác giới và đồng tính. Tuy nhiên, lưu ý rằng có sự thay đổi trong mỗi nhóm. Giải phẫu không hoàn toàn tương quan với hành vi.

Interpretation These results suggest that the size of the INAH3 area may relate to heterosexual versus homosexual orientation, on average. Note, however, the variation within each group. The anatomy does not correlate perfectly with behavior.

Giống như hầu hết các nghiên cứu khác, nghiên cứu này có những hạn chế của nó: Chúng tôi không biết liệu những người mà LeVay đã nghiên cứu có phải là điển hình của những người khác hay không. Một nghiên cứu sau đó cho thấy INAH3 của đồng tính nam có kích thước trung bình giữa nam giới dị tính và phụ nữ dị tính (Byne et al., 2001). Nghiên cứu đó đã mở rộng kiến ​​thức của chúng tôi bằng cách phát hiện ra rằng INAH3 khác nhau giữa mọi người vì sự khác biệt về kích thước của tế bào thần kinh, không phải số lượng tế bào thần kinh.

Like most studies, this one has its limitations: We do not know whether the people that LeVay studied were typical of others. One later study found that the INAH3 of homosexual men was intermediate in size between that of heterosexual men and heterosexual women (Byne et al., 2001). That study extended our knowledge by finding that the INAH3 varied among people because of differences in the size of neurons, not the number of neurons.

Một hạn chế lớn là nghiên cứu của LeVay không cho chúng ta biết liệu giải phẫu não có ảnh hưởng đến xu hướng tính dục của con người hay liệu hoạt động tình dục của họ có làm thay đổi giải phẫu não hay không. Nhiều kinh nghiệm sửa đổi giải phẫu não, ngay cả ở người lớn.

A major limitation is that LeVay’s study does not tell us whether brain anatomy influenced people’s sexual orientation or whether their sexual activities altered brain anatomy. Extensive experience modifies brain anatomy, even in adults.

Vậy nghiên cứu đưa chúng ta về đâu? Các bằng chứng chỉ ra cả di truyền và môi trường trước khi sinh có thể làm thay đổi một số khía cạnh của giải phẫu não theo những cách nhỏ. Tuy nhiên, chúng ta cần biết thêm về cách các yếu tố sinh học tương tác với trải nghiệm. Tại thời điểm này, chúng tôi thậm chí không biết loại trải nghiệm nào phù hợp nhất.

So where does the research leave us? The evidence points to both genetics and prenatal environment, which probably alter certain aspects of brain anatomy in small ways. However, we need to know far more about how these biological factors interact with experience. At this point, we don’t even know what kinds of experience are most relevant.

Những kết luận không chắc chắn và dự kiến ​​không phải là bất thường trong tâm lý học. Nếu bạn quyết định trở thành một nhà tâm lý học, bạn sẽ cần phải làm quen với những từ có thể và có lẽ. Hầu hết các nhà tâm lý học đều tránh từ chứng minh. Kết quả chỉ làm tăng hoặc giảm độ tin cậy của họ vào một kết luận.

Uncertainty and tentative conclusions are not unusual in psychology. If you decide to become a psychologist, you will need to get used to the words maybe and probably. Most psychologists avoid the word prove. Results merely increase or decrease their confidence in a conclusion.

Source: Kalat, J. W. (2017). Introduction to psychology (11ed). Boston, MA: Cengage Learning.

Leave a Reply