Thực nghiệm Experiments
Để xác định quan hệ nhân quả, nhà nghiên cứu sử dụng một thử nghiệm, một nghiên cứu mà trong đó điều tra viên sẽ kiểm soát ít nhất một biến, trong khi đo lường ít nhất một biến khác. Biến độc lập (independent variable) là phần mà người thử nghiệm thay đổi hoặc kiểm soát — ví dụ: cách thức đào tạo hay tập luyện mà mọi người nhận được hoặc sự hướng dẫn, điều phối của người thiết kế thí nghiệm, dành cho những cá nhân tham gia với vai trò là nhóm biến cố định, trước khi những người này bắt đầu một số nhiệm vụ của thí nghiệm đó. Biến phụ thuộc (dependent variable) là phần mà người thử nghiệm đo lường để xác định kết quả— ví dụ: có bao nhiêu câu hỏi mọi người trả lời đúng hoặc họ phản hồi nhanh như thế nào với các tín hiệu. Trong trường hợp các quy trình thí nghiệm khiến cho các nhóm khác nhau, hoạt động cũng khác nhau,lúc này bạn có thể coi biến độc lập là nguyên nhân và biến phụ thuộc là hệ quả.
Một nhóm thử nghiệm (experimental group) nhận được những liệu pháp mà một thử nghiệm được thiết kế để kiểm tra. Ví dụ, nhóm thử nghiệm có thể nhận được một số kinh nghiệm đặc biệt mà chúng tôi nghĩ rằng sẽ ảnh hưởng đến hành vi sau này. Nhóm (control group) đối chứng là một tập hợp các khách thể được áp dụng theo cách giống như nhóm thực nghiệm ngoại trừ quy trình mà thử nghiệm được thiết kế để là để làm đối chứng kiểm tra. Nếu những người trong nhóm thử nghiệm nhận được một trải nghiệm đặc biệt, trong cùng thời gian những người trong nhóm đối chứng sẽ làm điều gì đó khác. Nếu những người trong nhóm thử nghiệm nhận được một loại thuốc, những người trong nhóm đối chứng nhận được giả dược. ■ Bảng 2.2 trình bày các thí nghiệm với các nghiên cứu quan sát.
Bảng 2.2 So sánh năm phương pháp nghiên cứu | |
Thiết kế nghiên cứu quan sát | |
Nghiên cứu trường hợp | Là một bản tường trình chi tiết về một cá nhân, được sử dụng trong các trường hợp hay bệnh lý hiếm gặp. |
Quan sát tự nhiên
| Là một sự mô tả lại các hành vi thu thập được dưới sự tác động tự nhiên. |
Khảo sát
| Là các nghiên cứu về thái độ, hành vi, niềm tin… của người tham gia qua các câu hỏi. |
Tương quan
| Là sự mô tả của quá trình thay đổi hay tương tác giữa 2 biến, mà ở đó, người nghiên cứu không chi phối bất kỳ biến nào. Điều này nhằm xác định, tương quan giữa 2 biến trong thí nghiệm với nhau, mà không làm thay đổi các tác động nguyên nhân kết quả của 2 biến đang xem xét. |
Nghiên cứu thực nghiệm | |
Xác định ảnh hưởng của một biến được kiểm soát bởi điều tra viên lên một số biến khác được đo lường, phương pháp duy nhất cho chúng ta biết quan hệ nhân quả. |
Quy trình chính cho bất kỳ thử nghiệm nào là sự phân công ngẫu nhiên (random
assignment) khách thể tham gia vào các nhóm: Người thử nghiệm sử dụng một phương pháp may rủi nào đó, chẳng hạn như bốc thăm tên trong một chiếc mũ, để đảm bảo rằng tất cả những người tham gia đều có cùng xác suất được chỉ định vào một nhóm nhất định. Tại sao điều này lại quan trọng đến vậy? Hãy xem xét một vài ví dụ.
Phụ nữ ở thời kỳ mãn kinh đã giảm việc tiết ra estrogen và các hormone liên quan. Trong nhiều năm, các bác sĩ đã khuyến nghị liệu pháp thay thế hormone và những phụ nữ được điều trị bằng liệu pháp đó có xu hướng khỏe mạnh hơn những phụ nữ khác cùng tuổi. Tuy nhiên, những phụ nữ làm theo lời khuyên của bác sĩ này, lại cùng lúc có xu hướng quan tâm đến sức khỏe hơn theo những cách khác, chẳng hạn như chế độ ăn uống và tập thể dục, vì vậy, có thể tin rằng, những phụ nữ này có thể khỏe mạnh vì những lý do khác ngoài việc thay đổi nội tiết tố. Trong một thử nghiệm chứng minh về công dụng của hormone đến với sức khỏe của phụ nữ, hơn 160.000 phụ nữ đồng ý nhận hormone hoặc giả dược. Kết quả là: Những phụ nữ sử dụng hormone này đã giảm nguy cơ gãy xương hông và ung thư ruột kết, nhưng lại tăng nguy cơ mắc bệnh tim, đột quỵ và ung thư vú (Writing group for the Women’s health initiative investigators, 2002). Nhìn chung thì, phương pháp bổ sung thêm hormone này mang lại tác hại cũng nhiều như lợi ích tương tự nhau.
Một ví dụ khác: Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng những người uống rượu vừa phải (khoảng một ly bia hoặc rượu mỗi ngày) thường có sức khỏe tốt hơn trong dài hạn so với những người uống rượu nhiều hoặc không uống rượu. Tuy nhiên nếu bạn là người không uống rượu, liệu bạn có nên bắt đầu uống bia hay rượu không? Chúng ta không thể chắc chắn. Thứ nhất, đây chỉ là một hiệu ứng nhỏ. Trong một nghiên cứu, người không uống rượu chiếm 22% số người cao tuổi khỏe mạnh, so với 25% số người cao tuổi không khỏe (Sun et al., 2011). Thứ hai, những người không uống rượu có thể khác biệt so với những người uống rượu vừa phải trong những khía cạnh khác. Có thể những người khỏe mạnh hơn có xu hướng uống rượu hơn những người dễ mắc bệnh. Chúng ta không thể chắc chắn, trừ khi ai đó tiến hành một nghiên cứu với phân chia ngẫu nhiên vào nhóm uống rượu hoặc không uống rượu (đây sẽ là một nghiên cứu khó thực hiện).
Kiểm tra kiến thức: Một người hướng dẫn muốn tìm hiểu xem tần suất kiểm tra trong một lớp tâm lý học nhập môn có ảnh hưởng đến kết quả thi cuối kỳ của học sinh hay không. Người hướng dẫn cho các bài kiểm tra hàng tuần ở một lớp, chỉ ba bài kiểm tra ở lớp thứ hai và chỉ một bài kiểm tra giữa kỳ duy nhất ở lớp thứ ba. Cả ba lớp đều làm bài kiểm tra cuối kỳ giống nhau, và sau đó người hướng dẫn sẽ so sánh màn cách mà các sinh viên của họ thể hiện. Xác định biến phụ thuộc và biến độc lập trong thí nghiệm này. |
Giảm ảnh hưởng của kỳ vọng. Reducing the Influence of Expectations
Nếu chúng ta không cẩn trọng, thử nghiệm có thể sai lệch theo nhiều cách. Chúng ta hãy cùng xem xét một số vấn đề có thể xảy ra và cách các nhà nghiên cứu khắc phục chúng.
Thiên kiến của thực nghiệm viên và nghiên cứu mù. Experimenter Bias and Blind Studies
Sự thiên vị của thực nghiệm viên là xu hướng của người quan sát (không chủ ý, như một quy luật) nhận thức sai kết quả. Sự thiên vị đó thể hiện trong các thí nghiệm, và xảy ra cả ở thế giới thực. Hãy tưởng tượng bạn là một nhà tâm lý học pháp y, và bạn được yêu cầu làm chứng trước tòa về mức độ nguy hiểm của một người phạm tội cụ thể nào đó, và từ đó, theo bạn thì hình phạt nào là phù hợp với phạm nhân này. Bạn phỏng vấn người vi phạm và kiểm tra tất cả các yếu tố liên quan. Liệu bạn có thay đổi lời khai của mình tùy thuộc vào việc bên công tố hay bên bào chữa đã thuê bạn không? Các nghiên cứu cho thấy rằng bạn có thể sẽ thay đổi như vậy (Murrie, Boccaccini, Guarnera, & Rufino, 2013). Và ngay cả khi bạn cố gắng khách quan và công bằng, bạn cũng không thể dễ dàng bỏ qua những mong muốn và kỳ vọng của mình. Bây giờ hãy tưởng tượng, giả sử bạn là một trọng tài bóng chày, quyết định các cú đánh bóng và lỗi vi phạm. Lúc này bạn thấy một cú ném bóng lăn vào một trường hợp bóng đường biên giới, có vẻ là một trường hợp không rõ ràng. Nếu bạn biết rằng, người ném bóng là một trong những người xuất sắc trong giải đấu, liệu bạn có sẵn sàng ưu tiên cho anh ta và xem nó như một pha đánh trúng? Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng bạn chắc chắn sẽ làm điều đó (Kim & King, 2014). Vấn đề tương tự xảy ra khi một nhà nghiên cứu thử nghiệm một giả thuyết và hy vọng nhận được một kết quả cụ thể.
Để giảm thiểu ảnh hưởng của kỳ vọng trong nghiên cứu, cách tốt nhất là sử dụng một người quan sát mù / blind observer – người ghi lại dữ liệu mà không biết về ý định của nhà nghiên cứu. Lý tưởng nhất là người thử nghiệm cũng che giấu quy trình với những người tham gia. Giả sử các nhà nghiên cứu cho trẻ em một liệu pháp được cho là để tăng khả năng chú ý của trẻ. Nếu bọn trẻ biết dự đoán, kỳ vọng của chúng có thể ảnh hưởng đến hành vi của chúng. Trong một nghiên cứu mù đơn / single-blind study, một trong hai phía, hoặc người quan sát hoặc người tham gia sẽ không biết những người tham gia theo liệu pháp nào (xem ■ Bảng 2.3). Trong một nghiên cứu mù đôi / double-blind study, cả người quan sát và những người tham gia đều không biết những người tham gia đã được điều trị theo liệu pháp nào. Tất nhiên, thực hiện nghiên cứu sẽ cần phải ghi chép hồ sơ về những người tham gia đã nhận được liệu pháp gì. (Nếu mọi người đều không nhớ quy trình, thì chắc có lẽ đây là liệu pháp, thì người ta nói đùa là “mù ba”.)
Bảng 2.3. Nghiên cứu về phương pháp nghiên cứu mù đơn và mù đôi | |||
Ai là người nhận thức được những người tham gia thuộc nhóm nào? | |||
Người thiết kế thí nghiệm | Người quan sát | Người tham gia | |
Mù đơn | Có nhận thức | Không | Có |
Mù đơn | Có nhận thức | Có | Không |
Mù đôi | Có nhận thức | Không | Không |
Các nghiên cứu mù đôi rất khó thực hiện trong nhiều lĩnh vực của tâm lý học. Trong một nghiên cứu để xác định tác động của một liệu pháp tâm lý trị liệu, không thể che giấu người tham gia liệu họ có nhận được trị liệu tâm lý hay chưa. Trong một nghiên cứu về tác động của trò chơi video bạo lực, các nhà nghiên cứu có thể yêu cầu một số người chơi các trò chơi bạo lực và một số người chơi các trò chơi hòa bình (như The Sims), nhưng trò chơi hòa bình không hoàn toàn là một giả dược, vì những người chơi có thể có những kỳ vọng khác nhau từ các hiệu ứng của trò chơi (Boot, Simons, Stothart, & Stutts, 2013).
Đặc điểm trông đợi. Demand Characteristics
Khách thể tham gia một thí nghiệm tâm lý biết rằng họ đang tham gia vào một thí nghiệm. Về mặt đạo đức, nhà nghiên cứu phải cho họ biết và có được sự đồng ý của họ. Nếu bạn biết bạn đang trong một cuộc nghiên cứu và ai đó đang quan sát bạn, liệu điều đó có thể ảnh hưởng đến hành vi của bạn không? Hơn nữa, giả sử nếu bạn biết hoặc cố gắng đoán những gì người thử nghiệm hy vọng sẽ thấy. Kỳ vọng đó có thể thay đổi hành vi của bạn không?
Dưới đây là một ví dụ: nhà nghiên cứu nói với một nhóm nam giới rằng, có lý do để tin rằng nhìn thấy màu hồng làm giảm sức mạnh của họ. Trong khi đó họ nói với một nhóm khác rằng nhìn thấy màu hồng sẽ làm tăng sức mạnh. Sau đó, họ kiểm tra độ bám tay của những người đàn ông khi nhìn vào một bảng điều khiển màu hồng. Những người mong đợi màu hồng sẽ tăng sức mạnh của họ cho thấy độ bám chắc hơn 10% (Smith, Bell, & Fusco, 1986; xem ▼ Hình 2.11).
▲ Hình 2.11 Những người đàn ông mong đợi cảm thấy mạnh mẽ hơn khi nhìn vào màu hồng trên thực tế mạnh hơn những người mong đợi cảm thấy yếu hơn khi nhìn vào màu hồng.
Đây là một ví dụ khác: Nhiều năm trước, một chương trình truyền hình của Anh về giác quan hóa học đã kết luận bằng cách nói (sai) rằng mùi phụ thuộc vào tốc độ rung động của phân tử, và người phát thanh viên đã thực hiện một thí nghiệm minh chứng như sau: Khán giả nhìn thấy các điện cực dẫn từ một hình nón đến một mảng thiết bị điện tử. Người dẫn chương trình giải thích rằng các điện cực sẽ phát hiện được rung động của phân tử trong bình chứa, và sau đó chuyển tiếp nó đến thiết bị sẽ tạo ra một âm thanh cùng tần số. Khán giả được yêu cầu nghe tần số đó, và sau đó gọi hoặc viết thư cho nhà đài để cho biết họ đã ngửi thấy gì, nếu có. (Ngày hôm sau, chương trình giải thích rằng đó là một thử nghiệm và mùi không thực sự hoạt động theo cách đó.) Trong số 179 người đã gọi điện hoặc viết thứ, 155 người khẳng định đã ngửi thấy mùi gì đó, trong đó có 6 người phàn nàn rằng mùi đã kích thích họ bị sốt, hắt hơi, hoặc các cơn đau khác (O’Mahony, 1978).
Ngay cả khi các nhà nghiên cứu không nói cho người tham gia biết họ mong đợi gì, các dự đoán của người tham gia vẫn ảnh hưởng đến hành vi của họ. Martin Orne (1969) định nghĩa các đặc điểm yêu cầu là tín hiệu cho người tham gia biết những gì được mong đợi từ họ và những gì nhà nghiên cứu hy vọng tìm thấy. Để giảm thiểu các đặc điểm yêu cầu, nhà nghiên cứu thường cố gắng che giấu mục đích của thí nghiệm. Một nghiên cứu mù đôi cũng phục vụ mục đích này: nếu hai nhóm có cùng mong đợi nhưng hành vi khác nhau vì một liệu pháp, thì sự khác biệt không phải do mong đợi của họ. Các vấn đề liên quan đến các đặc điểm yêu cầu xuất hiện trong nhiều bối cảnh, không chỉ trong các thí nghiệm. Thông thường một phỏng vấn viên không cố ý đề xuất một câu trả lời hoặc đặt một câu hỏi một cách để người được phỏng vấn đoán được câu trả lời mong đợi. Các nhà trị liệu tâm lý đôi khi gợi ý, có chủ ý hoặc không, rằng họ đang tìm kiếm những loại ký ức hoặc suy nghĩ cụ thể. Việc gợi ý là một công cụ mạnh mẽ và đi theo đó là khó có thể tránh khỏi vệc áp dụng nó một cách vô thức.
Kiểm tra kiến thức Người thử nghiệm sẽ cố gắng giảm thiểu hoặc tránh điều nào sau đây? Khả năng sai lệch, biến độc lập, biến phụ thuộc, người quan sát mù hoặc đặc điểm yêu cầu. |
* Ghi chú của người dịch: Demand Characteristics trong nghiên cứu khoa học là những dấu hiệu hoặc tín hiệu cho người tham gia biết những gì được mong đợi từ họ và những gì nhà nghiên cứu hy vọng tìm thấy, gây ảnh hưởng đến hành vi và phản ứng của họ trong thí nghiệm.
Source: Kalat, J. W. (2017). Introduction to psychology (11ed). Boston, MA: Cengage Learning.