Tâm lý học tiến hóa Evolutionary Psychology
Từ xa xưa, con người đã có tập quán chọn giống (selective breeding). Người nông dân sử dụng những con gà đẻ trứng tốt nhất và những con bò cho sữa tốt nhất để làm giống cho thế hệ tiếp theo. Người ta đã lai tạo có chọn lọc những chú chó cảnh thân thiện, những chú chó bảo vệ đáng tin cậy và những chú chó chăn cừu ngoan ngoãn. Chúng ta đã cải thiện cây trồng bằng cách chọn hạt giống của những cây có năng suất tốt nhất. Maize (ngô Mỹ) là sản phẩm của quá trình lai tạo chọn lọc kéo dài của thổ dân châu Mỹ (Gallavotti và cộng sự, 2005; xem ▲ Hình 3.37). Sự sáng suốt của Charles Darwin là thiên nhiên cũng hoạt động như một nhà chọn lọc giống. Nếu một số loại cá thể nhất định thành công hơn những loại khác trong việc sống sót và tái sản xuất — đặc biệt là sinh sản — thì chúng sẽ truyền lại gen của mình và thế hệ tiếp theo giống họ hơn những cá thể kém thành công hơn. Theo thời gian, toàn bộ loài có thể thay đổi. Thuật ngữ ưa thích của Darwin ban đầu là sự sửa đổi (modification), nhưng khái niệm này nhanh chóng được gọi là sự tiến hóa (evolution), được định nghĩa là sự thay đổi dần tần số của các gen khác nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tại sao bạn có gen mà bạn đang có? Đơn giản, bố mẹ bạn có những gen đó và tồn tại đủ lâu để sinh sản. Bố mẹ của bố mẹ bạn cũng vậy, và cứ thế v.v. Bất kỳ gen nào phổ biến trong một quần thể lớn đều có thể có lợi trong quá khứ, mặc dù ngày nay không nhất thiết phải như vậy.
Chọn lọc tự nhiên tác động lên não và hành vi, giống như tác động lên phần còn lại của cơ thể. Ví dụ, dodo là một con chim lớn trong nhóm chim bồ câu nổi tiếng thích nghi với cuộc sống trên một hòn đảo không có đàn mẹ. Sống không cần chạy trốn kẻ thù, nó dần mất khả năng bay. (Dodos không biết bay rõ ràng có lợi thế nhờ tiết kiệm năng lượng.) Dodo cũng hết sợ hãi. Khi đồng minh của con người đến hòn đảo, họ săn những con dodo không biết bay, không sợ hãi để làm thịt hoặc để chơi thể thao, và nhanh chóng tiêu diệt chúng.
Không giống như các thành viên khác của họ mòng biển, mòng biển xira thường sinh sản trên các mỏm đá hẹp của vách đá dựng đứng. Nhiều hành vi của chúng thích nghi với tình trạng này, bao gồm cả việc con của chúng ở yên vị trí cho đến khi chúng đủ lớn để bay (Tinbergen, 1958). Ngay cả khi chúng được đặt trên một bề mặt phẳng, an toàn, chúng vẫn bất động. Mặt khác, con của các loài mòng biển khác bắt đầu đi loanh quanh từ khi còn nhỏ – ngay cả khi chúng được đặt trên một mỏm đá hẹp, giống như những nơi mòng biển xira làm tổ. (Tất nhiên, chúng sẽ bị rơi.) Hành vi cố định rất rõ ràng là thích nghi đối với mòng biển xira con, là sản phẩm của quá trình tiến hóa, không phải do học tập hay lý luận.
Sẽ rất dễ dàng để trích dẫn các ví dụ khác về hành vi động vật đã phát triển thành những trường hợp đặc biệt, nhưng đối với con người thì sao? Chúng ta đã phát triển các chuyên môn hóa trong hành vi của mình chưa? Một số khía cạnh của hành vi con người không có ý nghĩa gì ngoại trừ trong bối cảnh của tiến hóa. Ví dụ, hãy xem xét việc “nổi da gà” khi bạn bị lạnh. Việc này có mang lại điều gì tốt cho bạn? Không có. Tuy nhiên, các loài động vật có vú khác, với làn da nhiều lông hơn, lại có lợi thế bằng cách dựng lông khi chúng lạnh. Những sợi lông dựng của chúng cung cấp thêm lớp cách nhiệt. Dựng lông trong môi trường lạnh rất hữu ích đối với tổ tiên của bạn, và bạn tiếp tục thể hiện phản ứng đó, mặc dù lông trên cơ thể bạn ngắn, thường được bao phủ bởi quần áo và nói chung là vô ích.
Ngoài ra, hãy xem xét phản xạ cầm nắm của con người: Bàn tay của trẻ sơ sinh nắm chặt bất cứ thứ gì đặt vào lòng bàn tay, chẳng hạn như ngón tay hoặc bút chì. Hành vi này ngày nay không có chức năng gì, nhưng đối với tổ tiên của chúng ta, nó đã giúp một đứa trẻ sơ sinh bám chặt vào người mẹ khi nó di chuyển(xem ▲ Hình 3.38). Một lần nữa, ở con người, hành vi này chỉ có ý nghĩa như một sự chuyển giao tiến hóa.
Các nhà tâm lý học tiến hóa cố gắng suy luận ra những lợi ích ưu tiên dành cho một số gen và hành vi nhất định. Một số cách giải thích gây tranh cãi nhất liên quan đến hành vi tình dục của con người. Ví dụ, ở nhiều loài trong vương quốc động vật, con đực tìm kiếm cơ hội giao phối với nhiều bạn tình hơn con cái. Khi chúng ta thấy xu hướng này ở ếch, chim hoặc sư tử, một lời giải thích về mặt tiến hóa có vẻ rõ ràng: Một con đực có thể phát tán gen của mình bằng cách giao phối với nhiều con cái, trong khi con cái không thể sinh thêm con bằng cách giao phối với nhiều con đực hơn. (Con cái có thể đạt được một số lợi ích từ các đối tác khác, đặc biệt là nếu con đực đầu tiên bị vô sinh, nhưng khả năng đạt được của con cái ít hơn con đực.) Ở người, như thể hiện trong ▼ Hình 3.39, số nam giới mong muốn có nhiều hơn một bạn tình – nhiều hơn nữ (Schmitt và cộng sự, 2003). Nhiều người đàn ông sẽ chấp nhận hầu hết mọi đối tác cho một mối quan hệ tình dục ngắn hạn, trong khi hầu hết phụ nữ hoặc từ chối một mối quan hệ tình dục ngắn hạn hoặc chỉ chấp nhận một đối tác rất hấp dẫn. Nguyên nhân tiến hóa được đề xuất tương đồng với các loài khác (Bjorklund & Shackelford, 1999; Buss, 2000; Gangestad, 2000; Geary, 2000): Một người đàn ông có thể phát tán gen của mình bằng một trong hai chiến lược: Anh ta có thể dành toàn bộ nỗ lực để giúp một người phụ nữ nuôi con của anh ta, hoặc quan hệ tình dục với nhiều phụ nữ và hy vọng họ có thể nuôi con mà không cần anh ta giúp đỡ (Gangestad & Simpson, 2000). Phụ nữ có thể đạt được những lợi thế từ việc có nhiều bạn tình (Hrdy, 2000), nhưng họ không thể nhân số con của mình bằng cách nhân số bạn tình của họ.
Cách giải thích này đã gây tranh cãi. Một ý kiến phản đối là nó dường như tạo cho đàn ông một cái cớ để không chung thủy trong tình dục. Các nhà tâm lý học tiến hóa phản hồi rằng việc giải thích điều gì không bằng nói lên điều gì phải là. Chẳng hạn, nỗi đau cũng là một sản phẩm của quá trình tiến hóa, nhưng chúng ta rất hạnh phúc khi hạn chế được nó.
Một ý kiến phản đối khác là ngay cả khi lời giải thích về sự tiến hóa áp dụng cho các loài động vật khác, nó không nhất thiết phải có sức mạnh tương tự ở con người. Với con người, thật khó hơn để tách các khuynh hướng có vẻ là bẩm sinh của chúng ta với những gì chúng ta đã học tập được (Eagly & Wood, 1999).
Đây là một ví dụ khác về cách giải thích bất khả thi về sự khác biệt giữa nam và nữ: Bạn thích ai cho một mối quan hệ giao phối lâu dài, một người khỏe mạnh hơn về thể chất hay một người thành công hơn về mặt tài chính? Phụ nữ có nhiều khả năng hơn nam giới sẽ thích đối tác thành công về mặt tài chính (Buss, 2000). Một cách giải thích mang tính tiến hóa là một người phụ nữ cần một người chu cấp tốt trong thời gian mang thai và chăm sóc trẻ sơ sinh, khi cô ấy bị hạn chế về khả năng tìm kiếm thức ăn và các nguồn cung cấp. Do đó, phụ nữ đã tiến hóa để thích một người bạn đời có khả năng này. Mặc dù lời giải thích này là chính đáng, nhưng nó không thuyết phục. Thứ nhất, mức độ ưa thích của phụ nữ đối với một người chu cấp tốt khác nhau đáng kể giữa các nền văn hóa. Ở những quốc gia mà phụ nữ không có nguồn lực kinh tế riêng, họ thích lấy một người chồng giàu có, nhưng ở những nơi phụ nữ có thể kiếm được việc làm tốt, họ lại chọn một người chồng vì những lý do khác (Zentner & Mitura, 2012). Thứ hai, xu hướng này không phổ biến ngay cả đối với các loài động vật có vú khác. Ở nhiều loài động vật có vú, con đực tách khỏi con cái sau khi giao phối và không đóng góp gì vào việc chăm sóc con cái. Vì vậy, nếu đây là một xu hướng tiến hóa, nó phải tiến hóa đặc biệt ở người.
Tóm lại, điều quan trọng là phải phân biệt giữa những giải thích tiến hóa thuyết phục nhất (chẳng hạn như nổi da gà và phản xạ cầm nắm của trẻ sơ sinh) và những giải thích mang tính suy đoán nhiều hơn (de Waal, 2002). Trong nhiều trường hợp, thật dễ để đề xuất một lời giải thích theo hướng tiến hóa và khó khăn hơn để kiểm tra tính xác thực của nó.
Source: Kalat, J. W. (2017). Introduction to psychology (11ed). Boston, MA: Cengage Learning.