So sánh theo văn hóa và thuần tập

Comparisons by Culture and Cohort

Tập quán tình dục khác nhau đáng kể giữa các nền văn hóa và tiểu văn hóa. Một khảo sát ở bốn trường đại học ở Hoa Kỳ cho thấy tỉ lệ các sinh viên chưa tốt nghiệp có quan hệ tình dục dao động từ 54% ở một trường đến 90% ở một trường khác. Ở các trường đại học ở Thổ Nhĩ Kỳ, tỉ lệ là 32% nam giới so với 9% ở nữ giới ở một trường và 84% tỉ lệ nam giới và 33% tỉ lệ nữ giới ở trường khác (Askum & Ataca, 2007). Phụ nữ ở nhiều nước Châu Á và Châu Phi không quan hệ tình dục trước hôn nhân, hoặc không quan hệ trước khi đính hôn. Ở tất cả các quốc gia này, nam giới quan hệ trước khi kết hôn nhiều hơn nữ giới, một số trong đó là với gái mại dâm. Ở Hoa Kỳ và nhiều quốc gia Châu Âu, nam và nữ có quan hệ tình dục, về trung bình, khoảng 10 năm trở lên trước khi kết hôn (Parish, Laumann, & Mojola, 2007).

Sexual customs vary considerably among cultures and subcultures. A survey of four U.S. colleges found that the percentage of undergraduates who have had sexual intercourse ranged from 54 percent at one college to 90 percent at another (Davidson, Moore, Earle, & Davis, 2008). At universities in Turkey, the percentage ranged from 32 percent of the men and 9 percent of the women at one college to 84 percent of the men and 33 percent of the women at another college (Askum & Ataca, 2007). Women in many countries in Asia and Africa have no sex before marriage, or no sex before becoming engaged. In all of these countries, more men than women have sex before marriage, some of them with prostitutes. In the United States and many countries in Western Europe, men and women have sex, on average, 10 or more years before marriage (Parish, Laumann, & Mojola, 2007).

Các phong tục cũng khác nhau theo thời đại lịch sử. Trong hầu hết lịch sử nhân loại trên thế giới, quan hệ tình dục trước hôn nhân thì không phổ biến và mang tai tiếng nhiều. Cho đến giữa những năm 1900, các quy chuẩn đã thay đổi ở nhiều quốc gia. Trước đây, mọi người dậy thì vào khoảng 15 đến 16 tuổi và thường kết hôn trước tuổi 20. Ở Hoa Kỳ ngày nay, do sức khỏe và dinh dưỡng được cải thiện, tuổi dậy thì trung bình là khoảng 10 đến 12 tuổi, và vì các lý do kinh tế, hầu như mọi người trì hoãn kết hôn cho tới 25 hoặc 30 tuổi. Biện pháp tránh thai đáng tin cậy ngăn ngừa mang thai ngoài ý muốn. Ngoài ra, phim ảnh và truyền hình tấn công chúng ta với những gợi ý rằng người khác đang quan hệ tình dục với nhiều bạn tình. Trong bối cảnh đó, kiềm chế đến khi kết hôn trở thành ngoại lệ, không còn là quy định. Mặc dù hầu như mọi người cho rằng quan hệ tình dục ở tuổi vị thành niên là lệch lạc, những người khác lại bắt đầu thừa nhận rằng quan hệ tình dục ở tuổi vị thành niên với bạn tình lãng mạn không phải lúc nào cũng là xấu, và đôi khi còn là trải nghiệm tích cực. Tuy nhiên, “quan hệ tình dục” mà không có sự gắn kết mạnh mẽ nào tương quan với trầm cảm, và những thanh thiếu niên bắt đầu hoạt động tình dục sớm trong đời có xu hướng ít có những mối gắn bó thỏa mãn về sau  (Harden, 2012, 2014).

Customs also vary by historical era. For most of human history, premarital sex was uncommon and scandalous in much of the world. Since the early to mid-1900s, standards have changed in many countries. Previously, people reached puberty at about age 15 or 16 and typically got married before age 20. In the United States today, because of improved health and nutrition, the mean age of puberty is about 10 to 12, and for economic reasons, most people postpone marriage until 25 to 30. Reliable contraception prevents unwanted pregnancy. Also, movies and television bombard us with suggestions that other people are having casual sex with multiple partners. Under the circumstances, abstinence until marriage has become the exception, not the rule. Although most people still regard teenage sex as deviant, others are beginning to acknowledge that teenage sex with a romantic partner is not always harmful, and sometimes a positive experience. Nevertheless, “hooking up” without a strong personal attachment correlates with depression, and adolescents who begin their sexual activity early in life tend to have less satisfactory attachments later in life (Harden, 2012, 2014).

Một cuộc khảo sát ở Hoa Kỳ năm 1990 cho thấy các kết quả như ở hình 11.14 (Laumann et al., 1994). Về trung bình, mọi người ở độ tuổi 40 cho biết họ có nhiều bạn tình trong đời hơn những người ở độ tuổi 50. Rõ ràng là, số lượng bạn tình của bạn không giảm ngay cả khi bạn già đi. Những người 40 tuổi thì khác với những người 50 tuổi, và họ ở trong giai đoạn trẻ trung với một kỷ nguyên tự do tình dục nhiều hơn. Đây là một hiệu ứng thuần tập, giống như những hiệu ứng được mô tả ở chương 5. Các cuộc khảo sát ở Phần Lan, Brazil và Ấn Độ cũng cho thấy các xu hướng hướng tới tự do tình dục nhiều hơn trong các thế hệ gần đây (Kontula & Haavio-Mannila, 2009; Paiva, Aranha, & Bastos, 2008; Sandhya, 2009).

A survey in the United States in the 1990s found the results shown in ▲ Figure 11.14 (Laumann et al., 1994). On the average, people in their 40s reported more lifetime sex partners than did people in their 50s. Obviously, your total cannot decrease as you get older. The 40-year-olds were different people from the 50-year-olds, and they had been young during an era of greater sexual freedom. This is a cohort effect, like the ones described in Chapter 5. Surveys in Finland, Brazil, and India have also found trends toward greater sexual freedom in more recent generations (Kontula & Haavio-Mannila, 2009; Paiva, Aranha, & Bastos, 2008; Sandhya, 2009).

Hành vi tình dục trong kỷ nguyên AIDS

Sexual Behavior in the Era of AIDS

Trong những năm 1980, một nhân tố mới xâm nhập vào các động lực tình dục của mọi người: Sự sợ hãi về hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS), một bệnh lây qua đường tình dục tấn công hệ thống miễn dịch. Với HIV (Virus suy giảm miễn dịch ở người) – virus gây ra AIDS – để  lây nhiễm từ một người sang người khác, nó phải đi vào máu của người kia. (Virus không sống lâu ở môi trường bên ngoài chất lỏng cơ thể.) Ba con đường lây nhiễm chính đó là truyền máu bị nhiễm, dùng chung kim tiêm được sử dụng để tiêm ma túy bất hợp pháp vào cơ thể, và quan hệ tình dục. Giao hợp qua đường hậu môn là nguy cơ lây nhiễm rủi ro nhất, nhưng giao hợp qua đường âm đạo cũng có rủi ro. Chạm và hôn không lây nhiễm trừ khi cả hai người đều có vết thương hở trao đổi máu.

During the 1980s, a new factor entered into people’s sexual motivations: the fear of acquired immune deficiency syndrome (AIDS), a sexually transmitted disease that attacks the body’s immune system. For HIV (human immunodeficiency virus)—the virus that causes AIDS —to spread from one person to another, it must enter the other person’s blood. (The virus does not survive long outside body fluids.) The three common routes of transmission are transfusions of contaminated blood, sharing needles used for intravenous injections of illegal drugs, and sexual contact. Anal intercourse is the riskiest type of sexual contact, but vaginal intercourse is risky also. Touching and kissing do not spread the virus unless both people have open wounds that exchange blood.

Từ bao đời nay, mọi người biết cách tránh lây nhiễm bệnh giang mai, bệnh lậu và các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục khác: Tránh quan hệ tình dục với người có thể bị nhiễm hoặc hãy sử dụng bao cao su. Nếu mọi người kiên trì làm theo lời khuyên này, chúng ta có thể loại bỏ những bệnh đó từ lâu. Lời khuyên tương tự được đưa ra để chống lại AIDS, và các mức tuân thủ khác nhau. Chiến dịch truyền tin tạo ra những lợi ích rõ ràng ở nhiều khu vực.

For generations, people have known how to avoid contracting syphilis, gonorrhea, and other sexually transmitted diseases: Avoid sex with someone who might be infected, or use a condom. If people had consistently followed this advice, we could have eliminated those diseases long ago. The same advice is now offered to combat AIDS , and the amount of compliance varies. Information campaigns have produced clear benefits in many places.

Ở Hoa KỲ, AIDS lây nhiễm ban đầu là giữa những người đồng tính nam và sau đó là những người dị tính. Ở nhiều vùng của Châu Phi, nó ảnh hưởng tới một phần tư dân số trong độ tuổi 15 đến 50. Một khó khăn là mọi người không có triệu chứng gì trong nhiều năm, vì vậy họ có thể lây lan virus rất lâu trước khi họ biết mình mắc bệnh và trước khi bạn tình của họ có lý do để nghi ngờ nó.

In the United States, AIDS spread first among male homosexuals and later among heterosexuals. In parts of Africa, it affects up to one-fourth of the population between ages 15 and 50. One difficulty is that people remain symptom-free for years, so they can spread the virus long before they know they have it and before their partners have reason to suspect it.

Hưng phấn tình dục

Sexual Arousal

Động cơ tình dục phụ thuộc vào cả ảnh hưởng từ sinh lý và nhận thức – nghĩa là, không chỉ do “đường ống nước” của cơ thể mà còn bởi sự hiện diện của một bạn tình phù hợp, sự sẵn lòng được khơi dậy và ít lo âu. William Masters và Virginia Johnson (1966) đã đi tiên phong trong nghiên cứu về hưng phấn tình dục của con người bằng cách quan sát hàng trăm người thủ dâm hoặc quan hệ tình dục trong phòng thí nghiệm. Họ theo dõi phản ứng sinh lý của mọi người đối với tình dục, bao gồm nhịp tim, nhịp thở, căng cơ, căng cứng ở bộ phận sinh dục và vú, cũng như sự cương cứng ở núm vú.

Sexual motivation depends on both physiological and cognitive influences— that is, not just the “plumbing” of the body but also the presence of a suitable partner, a willingness to be aroused, and a lack of anxiety. William Masters and Virginia Johnson (1966) pioneered the study of human sexual response by actually observing hundreds of people masturbating or having sexual intercourse in a laboratory. They monitored people’s physiological responses to sex, including heart rate, breathing, muscle tension, blood engorgement of the genitals and breasts, and nipple erection.

Nghiên cứu của các nhà nghiên cứu khi đó bị coi là gây sốc, nhưng nó đã cách mạng hóa hiểu biết của chúng ta theo nhiều cách. Sigmund Freud đã lập luận (không dựa trên dữ liệu) rằng cực khoái âm đạo vượt trội hơn cực khoái âm vật mà ông coi là chưa trưởng thành. Masters và Johnson phát hiện ra rằng kích thích âm vật hầu như luôn cần thiết đối với phản ứng của nữ giới. Mặc dù Kinsey cho báo cáo rằng phụ nữ có nhiều cực khoái, hầu hết các bác sĩ tâm thần và các bác sĩ viết về tình dục (nam giới, như bạn có thể đoán) bỏ qua hoặc nghi ngờ những báo cáo đó. Masters và Johnson phát hiện ra rằng phụ nữ có thể có đạt cực khoái kéo dài hoặc nhiều lần đạt cực khoái trong thời gian ngắn, không như nam giới. Hơn nữa, nhiều bác sĩ tâm thần ghi chép rằng phụ nữ quan hệ tình dục chủ yếu để sinh con hoặc làm hài lòng bạn tình. Masters và Johnson chứng minh rằng phụ nữ có thể tận hưởng tình dục như nam giới, và có thể còn hơn thế. Rõ ràng là, đây là nghiên cứu với kết quả quan trọng.

Their research was considered shocking, but it revolutionized our understanding in many ways. Sigmund Freud had argued (based on no data) that vaginal orgasms were superior to clitoral orgasms, which he regarded as immature. Masters and Johnson found that clitoral stimulation was almost always essential to a woman’s response. Although Kinsey had reported women with multiple orgasms, most psychiatrists and physicians writing about sex (men, as you might guess) ignored or doubted those reports. Masters and Johnson found that many women can have prolonged orgasms or repeated orgasms within a short time, unlike men. Furthermore, many psychiatrists had written that women had sex mainly to have babies or to please their partners. Masters and Johnson demonstrated that women can enjoy sex as much as men do, and possibly more. Clearly, this was research with important consequences.

Masters và Johnson nhận diện bốn giai đoạn sinh lý trong hưng phấn tình dục (xem hình 11.15). Trong giai đoạn đầu, sự kích thích, dương vật của đàn ông cương lên và âm đạo của phụ nữ tiết dịch nhầy. Hơi thở nhanh và sâu. Nhịp tim và huyết áp tăng lên. Nhiều người đỏ bừng ở da giống như bị phát ban. Núm vú của phụ nữ cương lên và vú hơi phồng lên với những phụ nữ chưa cho con bú. Sự bồn chồn lo lắng làm giảm hưng phấn tình dục, cũng như café và các loại chất kích thích khác.

Masters and Johnson identified four physiological stages in sexual arousal (see ▼ Figure 11.15). During the first stage, excitement, a man’s penis becomes erect and a woman’s vagina becomes lubricated. Breathing is rapid and deep. Heart rate and blood pressure increase. Many people experience a flush of the skin, resembling a rash. Women’s nipples become erect, and the breasts swell slightly for women who have not nursed a baby. Nervousness interferes with sexual excitement, as do coffee and other stimulant drugs.

Sự kích thích duy trì ở mức cao trong giai đoạn hai, giai đoạn hưng phấn, thời gian kéo dài khác nhau tùy vào độ tuổi của cá nhân và cường độ của kích thích. Sự kích thích hình thành cho đến giai đoạn thứ ba, một sự giải phóng căng thẳng đột ngột được gọi là cao trào cực khoái, thời điểm mà toàn bộ cơ thể cảm nhận được. Giai đoạn thứ tư và giai đoạn cuối cùng là giai đoạn phục hồi, trạng thái thư giãn. Khi đạt cực khoái, các tuyến yên giải phóng hormone oxytocin giúp thư giãn, giảm lo âu, tăng cảm giác gắn bó với bạn tình.

Excitement remains high during the second stage, the plateau, which lasts for varying lengths of time depending on a person’s age and the intensity of the stimulation. Excitement builds until the third stage, a sudden release of tension known as climax or orgasm, which the entire body feels. The fourth and final stage is resolution, a state of relaxation. At orgasm, the pituitary gland releases the hormone oxytocin, which induces relaxation, decreased anxiety, and increased sense of attachment to one’s partner.

Như mô tả ở hình 11.15, kiểu kích thích giữa mọi người là khác nhau. Trong cùng một giai đoạn nhất định, người phụ nữ có thể không đạt cực khoái, có thể trải nghiệm một hoặc nhiều lần đạt cực khoái. Hầu hết nam giới chỉ đạt cực khoái một lần, mặc dù họ có thể đạt được cực khoái lần nữa sau một giai đoạn nghỉ (hoặc giai đoạn trơ) thường kéo dài ít nhất khoảng một giờ. Ở cả nam giới và nữ giới, cường độ cực khoái dao động từ một cái gì đó giống như một tiếng thở dài cho đến một trải nghiệm cực kỳ mãnh liệt.

As Figure 11.15 shows, the pattern of excitation varies from one person to another. During a given episode, a woman may experience no orgasm, one, or many. Most men have only one orgasm, although they can achieve orgasm again following a rest (or refractory) period that generally lasts at least an hour. Among both men and women, the intensity of an orgasm ranges from something like a sigh to an extremely intense experience.

Ở nam giới, lượng hormone testosterone chỉ liên quan ít đến tần suất hoạt động tình dục hàng tuần, nhưng một mô hình thú vị được báo cáo: đàn ông độc thân có lượng testosterone cao hơn đàn ông đang trong tham gia một mối quan hệ cam kết như là hôn nhân, trừ những người đàn ông tham gia một mối quan hệ cam kết nhưng vẫn tìm kiếm các bạn tình khác bên ngoài (McIntyre, Gangestad, et al., 2006). Làm sao chúng ta giải thích được các kết quả này? Một khả năng là khi một người đàn ông tin tưởng vào bạn tình, lượng testosterone giảm xuống. Tuy nhiên, một nghiên cứu chiều dọc đưa ra một lời giải thích khác: Đàn ông có mức testosterone thấp hơn có nhiều khả năng tham gia vào một mối quan hệ cam kết một vợ một chồng, trong khi những người có mức testosterone cao có xu hướng tiếp tục tìm kiếm nhiều bạn tình (Van Anders & Watson, 2006). Phụ nữ có lượng testosterone cao cũng có xu hướng tìm kiếm nhiều bạn tình (Van Anders, Hamilton, & Watson, 2007).

Among men, levels of the hormone testosterone relate only weakly to frequency of sexual activity, but one interesting pattern has been reported: Single men have higher testosterone levels than men in a committed relationship, such as marriage, except for men who are in a committed relationship but still seeking additional sex partners (McIntyre, Gangestad, et al., 2006). How shall we interpret these results? One possibility is that when a man becomes completely faithful to a partner, his testosterone level drops. However, a longitudinal study supported a different interpretation: Men whose testosterone levels start lower are more likely to enter into a committed, monogamous relationship, whereas those with higher levels continue seeking multiple partners (Van Anders & Watson, 2006). Women with relatively high testosterone levels also tend to seek multiple partners (Van Anders, Hamilton, & Watson, 2007).

Source: Kalat, J. W. (2017). Introduction to psychology (11ed). Boston, MA: Cengage Learning.

Leave a Reply