Rối loạn giảm chú ý

https://hoagmedicalgroup.com/

Rối loạn giảm chú ý

Attention Deficit Disorder

People vary in their ability to maintain attention, as in anything else.  (ADD) is characterized by easy distraction, impulsiveness, moodiness, and failure to follow through on plans. (ADHD) is the same except with excessive activity and “fidgetiness.” The symptoms vary considerably in type and intensity. Some people have problems mostly with attention, some mainly with impulsivity, and some with both.

Cũng giống với bất kỳ điều gì khác, mọi người khác nhau về khả năng duy trì sự chú ý. Rối loạn giảm chú ý (attention deficit disorder – ADD) được chuẩn đoán bởi sự mất tập trung một cách dễ dàng, tính bốc đồng, ủ rũ và không thực hiện đúng kế hoạch đã đề ra. Rối loạn tăng động giảm chú ý (Attention deficit hyperactivity disorder – ADHD) cũng giống như vậy ngoại trừ hoạt động quá mức và “cáu kỉnh”. Các triệu chứng khác nhau đáng kể về thể loại và cường độ. Một số người chủ yếu gặp vấn đề về sự chú ý, một số người chủ yếu gặp vấn đề về tính bốc đồng và một số người mắc cả hai.

Các nguyên nhân đằng sau các chứng rối loạn này gần như chắc chắn khác nhau. Trong một số trường hợp, Rối loạn tăng động giảm chú ý là kết quả của việc thai nhi tiếp xúc với rượu, nhiễm độc chì, động kinh hoặc căng thẳng về cảm xúc (Pearl, Weiss, & Stein, 2001). Các nhà nghiên cứu đã tìm thấy nhiều bằng chứng về khuynh hướng di truyền, nhưng không có gen phổ biến nào tạo ra ảnh hưởng lớn. Rõ ràng nhiều gen có thể tạo ra ảnh hưởng từ nhỏ đến trung bình (Franke và cộng sự, 2012; Li, Chang, Zhang, Gao, & Wang, 2014). Một khả năng khác là di truyền biểu sinh – nghĩa là, những thay đổi trong biểu hiện của các gen, chứ không phải là những thay đổi trong bản thân các gen.

Cả trẻ em và người lớn mắc ADHD nhìn chung đều có biểu hiện bất thường mức nhẹ ở một số vùng não nhất định, đặc biệt là ở vỏ não trước (Cubillo, Halari, Smith, Taylor, & Rubia, 2012). M Một số báo cáo khoa học cũng nhận thấy rằng những người mắc ADHD có mức hoạt động tổng thể của não mạnh hơn, có nghĩa là thiếu sự dẫn truyền ức chế (Wang, Jiao, Tang, Wang, & Lu, 2013). Tất cả các bất thường về não được báo cáo, giống như các bất thường về gen được báo cáo, đều khác nhau ở mỗi người. Nhiều nhà tâm lý học nghi ngờ rằng ADHD là một chứng rối loạn đơn lẻ (Furman, 2008).

Chính xác thì “thiếu chú ý” nghĩa là thế nào? Vấn đề không phải là ta không có khả năng chú ý. Những người mắc chứng ADHD dễ dàng chú ý đến bất cứ điều gì họ quan tâm. Vấn đề liên quan đến việc điều hướng sự chú ý một cách nhanh chóng và phù hợp. Dưới đây là hai hoạt động nhạy cảm với chứng rối loạn thiếu tập trung:

Trì hoãn lựa chọn: Bạn thích phần thưởng nhỏ nhận liền ngay bây giờ hay phần thưởng lớn hơn nhưng phải chờ đợi? Rõ ràng, nó phụ thuộc vào bao nhiêu lớn hơn và bao nhiêu sau đó. Trung bình, những người bị ADHD có nhiều khả năng sẽ chọn phần thưởng ngay lập tức so với những người khác ở cùng độ tuổi (Solanto và cộng sự, 2001).

Ngừng ra tín hiệu: Giả sử nhiệm vụ của bạn là nhấn phím X bất cứ khi nào bạn nhìn thấy dấu X trên màn hình và phím O bất cứ khi nào bạn nhìn thấy chữ O. Tuy nhiên, nếu bạn nghe thấy tiếng “bíp” ngay sau một trong hai chữ cái, thì bạn sẽ không ấn nút. Nếu chữ cái và tiếng bíp xảy ra đồng thời, bạn ức chế ý sự thôi thúc ấn nút một cách dễ dàng. Nếu tiếng bíp phát ra sau khi bạn đã bắt đầu bấm nút, thì đã quá muộn rồi. Điều thú vị là: với độ trễ ngắn, sau bao lâu trì hoãn thì bạn vẫn có thể ngăn ngón tay mình nhấn nút? Hầu hết những người mắc chứng ADD hoặc ADHD đều gặp khó khăn trong việc ức chế phản ứng của họ sau những lần trì hoãn ngắn (Lipszyc & Schachar, 2010).

Trì hoãn lựa chọn và Ngừng ra tín hiệu đo lường nhiều vấn đề về chú ý khác nhau. Một số trẻ em có biểu hiện khiếm khuyết về chú ý trong một hoạt động nhưng sẽ không đối với nhiệm vụ còn lại (Solanto và cộng sự, 2001; Sonuga-Barke, 2004).

Phương pháp điều trị ADD hoặc ADHD phổ biến nhất là thuốc kích thích như methylphenidate (Ritalin) hoặc amphetamine (Adderall). Thuốc kích thích làm giảm sự bốc đồng và các vấn đề thiếu tập trung trong hầu hết các trường hợp, đặc biệt là trong giai đoạn đầu. Đối với các nghiên cứu kéo dài hơn một năm, bằng chứng không rõ ràng về việc liệu thuốc có tiếp tục mang lại lợi ích đáng kể hay không, đặc biệt là đối với kết quả học tập (Langberg & Becker, 2012; Molina và cộng sự, 2009; Parker, Wales, Chalhoub, & Harpin, 2013).

Một số lượng lớn những người bình thường, khỏe mạnh đã sử dụng thuốc kích thích để cố gắng nâng cao khả năng vốn không gặp vấn đề gì của họ. Điều này đặt ra câu hỏi về đạo đức liệu có công bằng để học sinh đạt điểm cao hơn hay để các chuyên gia trong lĩnh vực cạnh tranh đạt được lợi thế bằng cách sử dụng chất. Tuy nhiên, mối quan ngại có thể đã bị đặt sai chỗ. Nghiên cứu cho thấy rằng thuốc kích thích không tốt hơn giả dược, và có thể tệ hơn, đối với những người có hiệu suất làm việc tốt (Ilieva, Boland, & Farah, 2013).

Đôi khi xã hội của chúng ta phụ thuộc quá nhiều vào thuốc, và câu nói đó đặc biệt đúng đối với vấn đề ADHD. Các nghiên cứu ở Hoa Kỳ và ở Iceland đã phát hiện ra rằng các loại thuốc kích thích được kê đơn cho trẻ em vẫn còn nhỏ tuổi so với độ tuổi đi học của chúng. Có nghĩa là, nếu ngưỡng tuổi vào lớp một là 6 tuổi, những trẻ chỉ vừa đủ 6 tuổi có nhiều khả năng được chẩn đoán ADHD và được điều trị bằng thuốc kích thích hơn những trẻ gần 7 tuổi (Elder, 2010; Zoëga, Valdimarsdóttir, & Hernández-Díaz, 2012). Chúng ta có thể suy ra rằng một số giáo viên và bác sĩ tâm thần đang nhầm lẫn sự thiếu trưởng thành với một vấn đề y học.

Để giảm thiểu việc sử dụng thuốc, những quy trình nào khác sẽ có hiệu quả đây? Tập thể dục và ngủ đủ giấc đã cho thấy tác dụng (Gapin, Labban, & Etnier, 2011; Gruber và cộng sự, 2011). Liệu pháp hành vi cũng có hiệu quả, kể cả khi không sử dụng thuốc hoặc dùng kết hợp (Evans, Owens, & Bunford, 2014). Những phương pháp đó bao gồm cả việc lớp học sử dụng phần thưởng cho hành vi tốt và thời gian đình chỉ cho những hành vi không phù hợp, cũng như các kỹ thuật mà các bậc phụ huynh sử dụng. Nghiên cứu chỉ ra rằng các liệu pháp hành vi hiệu quả hơn các loại thuốc kích thích trong cải thiện các kỹ năng xã hội, nâng cao kết quả học tập và giảm các vấn đề về hạnh kiểm (Daley và cộng sự, 2014; Sibley, Kuriyan, Evans, Waxmonsky, & Smith, 2014).

Source: Kalat, J. W. (2017). Introduction to psychology (11ed). Boston, MA: Cengage Learning.

Leave a Reply