Nhận biết kích thích tối thiểu

MODULE 4.3 Diễn giải thông tin cảm giác Interpreting Sensory Information

Theo một cách diễn đạt phổ biến, “một bức tranh có giá trị hơn ngàn từ ngữ”. Nếu vậy, một phần nghìn của bức tranh có giá trị là bao nhiêu? Một từ? Có lẽ không phải vậy.

Ảnh in, chẳng hạn như ảnh ở trang 122, bao gồm rất nhiều dấu chấm, bạn có thể thấy nếu phóng to ảnh, như trong ▼ Hình 4.31. Mặc dù một dấu chấm tự nó không cho chúng ta biết gì, nhưng hình của nhiều dấu chấm trở thành một bức tranh ý nghĩa.

Thị giác của chúng ta là như vậy mọi lúc. Võng mạc của bạn bao gồm hơn một trăm triệu TB hình que và hình nón, mỗi tế bào đều nhìn thấy một chấm của trường thị giác. Những gì bạn cảm nhận không phải là các chấm mà là các đường thẳng, đường cong và các đối tượng. Hệ thống thần kinh của bạn bắt đầu với một lượng lớn thông tin và trích xuất các mô hình quan trọng.

Nhận biết các kích thích tối thiểu Perceiving Minimal Stimuli

Một số nhà nghiên cứu tâm lý học đầu tiên đã cố gắng xác định những âm thanh, ánh sáng và những động chạm yếu nhất mà con người có thể phát hiện ra. Họ cũng đo lường sự khác biệt nhỏ nhất mà mọi người có thể phát hiện giữa kích thích này và kích thích khác – sự khác biệt đáng chú ý (JND). Mặc dù những câu hỏi này có vẻ dễ dàng, nhưng câu trả lời phức tạp hơn. Đầu tiên, câu trả lời phụ thuộc vào những gì bạn đã làm ngay trước khi thử nghiệm. Nếu bạn đã dành một giờ sau cùng trước thí nghiệm trên bãi biển vào một ngày nắng đẹp, bạn sẽ rất kém trong việc phát hiện ra những ánh sáng yếu ớt. Nếu bạn đã dành một giờ sau cùng để nghe nhạc lớn, bạn sẽ kém khả năng nghe những âm thanh nhẹ nhàng. Nhưng ngay cả khi bạn đã dành một giờ sau cùng trong một căn phòng tối và yên tĩnh, những phản hồi của bạn có thể khó diễn giải.

Ngưỡng cảm giác và Phát hiện tín hiệu Sensory Thresholds and Signal Detection

Hãy tưởng tượng một thử nghiệm điển hình để xác định ngưỡng nghe của bạn — nghĩa là cường độ tối thiểu mà bạn có thể nghe thấy: Trong mỗi lần thử nghiệm, người thử nghiệm trình bày 2 trường hợp: không có âm thanh hoặc âm thanh rất nhỏ và bạn báo cáo là nghe thấy hoặc không nghe thấy. ▼ Hình 4.32 trình bày các kết quả điển hình. Lưu ý rằng không có khoảng cách rõ ràng nào ngăn cách âm thanh nghe được với âm thanh không nghe được. Do đó, các nhà nghiên cứu định nghĩa ngưỡng cảm giác tuyệt đối (absolute sensory threshold)  là cường độ mà một cá nhân nhất định phát hiện ra kích thích trong 50% thời gian. Tuy nhiên, đôi khi mọi người cho biết họ đã nghe thấy âm thanh khi thực tế không có. Chúng ta không nên ngạc nhiên. Trong suốt quá trình nghiên cứu, họ đã nghe những âm thanh rất nhỏ và nói “có âm thanh” khi họ hầu như không nghe thấy gì. Sự khác biệt giữa không có gì và hầu như không có gì là rất nhỏ. Tuy nhiên, nếu ai đó báo cáo không có âm thanh khi thực tế không có âm thanh nào, chúng ta phải thận trọng trong việc giải thích các phản hồi khác. Tần suất họ thực sự nghe thấy âm thanh, và tần suất họ chỉ đoán?

Khi mọi người cố gắng phát hiện các kích thích yếu, họ có thể đúng theo hai cách: báo cáo sự hiện diện của một kích thích (“đúng”) và báo cáo sự vắng mặt của nó (một “từ chối đúng”). Họ cũng có thể sai theo hai cách: không phát hiện ra một kích thích (“bỏ sót”) và báo cáo nó xuất hiện khi nó vắng mặt (“báo động giả”). Hình 4.33 phác thảo những khả năng này

Lý thuyết phát hiện tín hiệu (Signal-detection theory)nghiên cứu về xu hướng của mọi người để thực hiện các lần đúng, từ chối đúng, bỏ sót và báo động giả (D. M. Green & Swets, 1966). Lý thuyết bắt nguồn từ kỹ thuật, nơi nó áp dụng cho các vấn đề như phát hiện tín hiệu vô tuyến khi có tiếng ồn. Giả sử ai đó báo cáo “có kích thích” trên 80%v các thử nghiệm khi thực tế có kích thích. Số liệu thống kê đó là vô nghĩa trừ khi chúng ta cũng biết tần suất người đó nói rằng “có kích thích” khi thực tế không có kích thích. Nếu người đó cũng báo cáo “có kích thích” 80% khi không có kích thích, thì người đó chỉ đang phỏng đoán.

 

 

Trong thử nghiệm phát hiện tín hiệu, phản hồi của mọi người phụ thuộc vào mức độ sẵn sàng chấp nhận rủi ro “bỏ lỡ” hoặc “báo động giả”. (Khi nghi ngờ, bạn phải mạo hiểm cái này hay cái kia.) Giả sử bạn là người tham gia và bạn được thông báo rằng bạn sẽ nhận được phần thưởng 10 xu bất cứ khi nào bạn báo cáo chính xác rằng có đèn chiếu sáng, nhưng bạn sẽ bị phạt 1 xu nếu bạn nói “có” khi thực tế không có. Khi bạn nghi ngờ, bạn đoán “có” với kết quả như trong Hình 4.34a. Sau đó, các quy tắc thay đổi: Bạn nhận được phần thưởng 1 xu cho việc báo cáo chính xác sự hiện diện của ánh sáng, nhưng bạn phải chịu hình phạt 10 xu và bị điện giật nếu bạn báo cáo ánh sáng khi thực tế không có. Bây giờ bạn chỉ nói “có” khi chắc chắn, với kết quả như trong Hình 4.34b.

Mọi người cũng trở nên thận trọng về “báo động giả” vì những lý do khác. Trong một thử nghiệm, những người tham gia được yêu cầu đọc các từ nhấp nháy nhanh trên màn hình. Họ thể hiện tốt những từ bình thường như sông hoặc đào. Tuy nhiên, đối với những từ mang nhiều cảm xúc như dương vật hoặc chó chết, họ thường nói rằng họ không chắc chắn về những gì họ đã nhìn thấy. Có thể có một số giải thích (ví dụ, G. S. Blum & Barbour, 1979). Một là những người tham gia ngần ngại thốt ra một từ đầy cảm xúc trừ khi họ chắc chắn rằng họ đúng

Phương pháp phát hiện tín hiệu rất quan trọng trong nhiều cơ sở khác xa phòng thí nghiệm. Ví dụ, hệ thống pháp luật cũng là một tình huống phát hiện tín hiệu. Bồi thẩm đoàn có thể đúng theo hai cách và sai theo hai cách:

 Bị cáo có tộiBị cáo vô tội
Bồi thẩm đoán bỏ phiếu có tộiĐúngBáo động giả/Oan
Bồi thẩm đoàn bỏ phiếu vô tộiBỏ lỡTừ chối đúng

Các thẩm phán hướng dẫn bồi thẩm đoàn bỏ phiếu “không có tội” khi có nghi ngờ. Việc bỏ sót, giải thoát một người có tội, còn dễ chấp nhận hơn là một báo động giả kết tội oan một người vô tội

Một ví dụ khác là kiểm tra hành lý tại sân bay. Người kiểm tra có thể sai lầm khi nghĩ rằng họ nhìn thấy một vũ khí khi thực tế không có  hoặc bỏ qua một vũ khí khi thực tế có. Một vấn đề đặc biệt trong trường hợp này là rất ít người đi máy bay thực sự đóng gói vũ khí. Nếu bạn không nhìn thấy một vũ khí trong nhiều tuần, bạn sẽ không nhìn thấy một vũ khí nào và có thể bạn sẽ bỏ qua một vũ khí ngay cả khi bạn nhìn thấy nó. Buộc mọi người chậm lại không giúp ích được gì nhiều. (Nó chỉ làm chậm quá trình xếp hàng tại an ninh sân bay.)

Bác sĩ X quang gặp phải một vấn đề liên quan. Bác sĩ X quang có thể quét qua hàng trăm lần quét tia X, tìm kiếm các nốt nhỏ có thể chỉ ra bệnh tật. Với chuyên môn ngày càng cao, họ tìm thấy hầu hết trong số đó, nhưng đôi khi họ bỏ qua thứ mà họ không mong đợi sẽ thấy. Trong một nghiên cứu, 24 bác sĩ chuyên khoa X quang đã kiểm tra ảnh chụp ngực của 5 người để tìm các nốt sần. Trong phần thứ năm, các nhà nghiên cứu đã thêm một hình vẽ của một con khỉ đột (xem Hình 4.35). Mặc dù họ đã tìm thấy hầu hết các nốt sần, nhưng chỉ 4 trong số 24 người chú ý đến khỉ đột (Drew, Võ, & Wolfe, 2013).

Tri giác dưới ngưỡng Subliminal Perception

Tri giác dưới ngưỡng (Subliminal perception) là hiện tượng một tác nhân kích thích có thể ảnh hưởng đến hành vi ngay cả khi nó xuất hiện mờ nhạt hoặc ngắn ngủi đến mức người quan sát không có tri giác có ý thức về nó. (Limen là tiếng Latinh có nghĩa là “ngưỡng”. Vì vậy, subliminal có nghĩa là “dưới ngưỡng.”) Tri giác dưới ngưỡng là mạnh mẽ, không thể, hay một cái gì đó ở giữa?

Thứ mà tri giác dưới ngưỡng không làm được What Subliminal Perception Doesn’t Do

Nhiều năm trước, người ta đã tuyên bố rằng những thông điệp dưới ngưỡng có thể kiểm soát thói quen mua hàng của mọi người. Ví dụ: một chủ rạp chiếu phim có thể chèn một khung hình duy nhất, “ĂN BỎNG NGÔ” vào giữa phim. Những người xem, không biết về thông điệp, được cho là sẽ đổ đến quầy  để mua bỏng ngô. Nhiều thử nghiệm về giả thuyết này thấy hiệu ứng rất ít hoặc không có hiệu ứng gì, và nhà quảng cáo cuối cùng thừa nhận rằng anh ta không có bằng chứng

Một tuyên bố khác là một số bản ghi âm nhạc rock-’n’-roll nhất định chứa thông điệp “bão táp” được ghi lại và chồng lên các bài hát. Một số người cho rằng người nghe nhận ra những thông điệp này một cách vô thức và sau đó làm theo lời khuyên xấu xa. Nếu bạn dành hàng giờ để nghe nhạc rock ghi lại— và tôi hy vọng bạn có điều gì đó tốt hơn để làm với thời gian của mình — với một chút trí tưởng tượng, bạn có thể nghĩ rằng mình nghe thấy nhiều thông điệp khác nhau, bất kể các nghệ sĩ có ý định như vậy hay không. Tuy nhiên, đối với các mục đích thực tế thì điều đó không thành vấn đề, bởi vì các nghiên cứu lặp đi lặp lại đã phát hiện ra rằng khi bạn nghe nhạc được phát trước đó, bạn không thể giải mã bất kỳ thông điệp sau đó và bất kỳ thông điệp đằng sau bài hát cũng không ảnh hưởng đến hành vi của bạn

Tuyên bố thứ ba không được ủng hộ: “Băng âm thanh dưới ngưỡng” với các thông điệp mờ nhạt, không nghe được có thể giúp bạn cải thiện trí nhớ, bỏ hút thuốc, giảm cân hoặc nâng cao tự đánh giá của mình. Trong một nghiên cứu, các nhà tâm lý học đã yêu cầu hơn 200 tình nguyện viên nghe một thương hiệu băng ghi âm phổ biến. Tuy nhiên, họ cố tình gắn nhãn sai một số băng ghi tự đánh giá là “băng ghi nhớ” và một số băng ghi nhớ là “băng ghi tự đánh giá”. Sau một tháng lắng nghe, hầu hết những người nghĩ rằng họ đang nghe băng ghi âm về tự đánh giá cho biết họ đã cải thiện nâng cao tự đánh giá của mình, và những người nghĩ rằng họ đang nghe băng ghi nhớ cho biết họ đã cải thiện trí nhớ. Nội dung thực tế không có sự khác biệt. Sự cải tiến phụ thuộc vào kỳ vọng của mọi người chứ không phải từ băng (Greenwald, Spangenberg, Pratkanis và Eskanazi, 1991)

Thứ mà tri giác dưới ngưỡng làm được What Subliminal Perception Can Do

Các thông điệp dưới ngưỡng thực sự tạo ra hiệu ứng, mặc dù hầu hết đều ngắn hoặc nhỏ. Ví dụ, trong một số nghiên cứu, mọi người xem ảnh khuôn mặt có biểu cảm trung tính, dễ chịu hoặc khó chịu trong một phần nhỏ của giây, sau đó là một mẫu giao thoa. Trong những điều kiện này, con người không có tri giác có ý thức về khuôn mặt. Tuy nhiên, sau khi nhìn thấy khuôn mặt vui vẻ, họ thường cử động cơ mặt nhanh và nhẹ theo hướng cười, và sau khi nhìn thấy khuôn mặt giận dữ, họ hơi căng cơ theo hướng cau mày (Dimberg, Thunberg và Elmehed, 2000). Nếu họ xem một khuôn mặt có biểu cảm dưới ngưỡng, và ngay sau đó nhìn thấy khuôn mặt đó lâu hơn, với biểu cảm trung tính, thì nhiều khả năng họ sẽ đánh giá khuôn mặt đó là yêu thích nếu khuôn mặt dưới ngưỡng có biểu hiện dễ chịu và đánh giá không yêu thích nếu khuôn mặt dưới ngưỡng có biểu hiện khó chịu (Prochnow et al., 2013). Trong một nghiên cứu khác, những người đàn ông trẻ tuổi xem nhiều bức ảnh khác nhau trong một phần nhỏ của giây, sau đó là các bức ảnh gây nhiễu và không có phản ứng có ý thức với bất kỳ bức ảnh nào. Tuy nhiên, một số bức ảnh lại cho thấy các cặp đôi yêu nhau khỏa thân. Sau những bức ảnh đó, não của những người đàn ông cho thấy hoạt động gia tăng trong các lĩnh vực liên quan đến phần thưởng (Oei, Both, van Heemst và van der Grond, 2014).

Các hiệu ứng tri giác dưới ngưỡng chỉ xuất hiện khi có những thay đổi nhỏ trong hiệu suất trung bình, thường là trong các phép đo được thực hiện ngay sau khi kích thích dưới ngưỡng. Tuy nhiên, thực tế là những tác động như vậy xảy ra chứng tỏ khả năng ảnh hưởng vô thức

Source: Kalat, J. W. (2017). Introduction to psychology (11ed). Boston, MA: Cengage Learning.

Leave a Reply