ĐO LƯỜNG TRÍ THÔNG MINH BẰNG CÁC BÀI KIỂM TRA CHUẨN HÓA

Tiếp cận tâm trắc đo trí thông minh tập trung vào thể hiện của mọi người trong các bài kiểm tra chuẩn hóa, những bài kiểm tra sẽ đánh giá năng lực trí tuệ. Những bài kiểm tra này kiểm tra kiến thức và cách mọi người giải quyết vấn đề. Trong phần lớn thế kỷ vừa qua, hướng tiếp cận tâm trắc đã chiếm ưu thế và có ảnh hưởng lớn. Cách tiếp cận này đặc biệt ảnh hưởng đến cách chúng ta nhìn nhận trí thông minh trong cuộc sống hàng ngày, ít nhất là ở các quốc gia công nghiệp.

The psychometric approach to measuring intelligence focuses on how people perform on standardized tests that assess mental abilities. These tests examine what people know and how they solve problems. For much of the past century, the psychometric approach to intelligence has been dominant and influential. This approach has especially affected how we view intelligence in everyday life, at least within industrialized nations.

Một loại bài kiểm tra chuẩn hóa tập trung vào thành tích. Loại còn lại tập trung vào năng khiếu. Các bài kiểm tra thành tích đánh giá mức độ kỹ năng và kiến thức hiện tại của mọi người. Các bài kiểm tra năng khiếu tìm cách dự đoán những nhiệm vụ và những công việc mà mọi người sẽ giỏi trong tương lai. Cả hai loại bài kiểm tra đều có thể có tính may rủi cao. Thể hiện trong bài kiểm tra có thể ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của họ.

One type of standardized test focuses on achievement. The other type focuses on aptitude. Achievement tests assess people’s current levels of skill and of knowledge. Aptitude tests seek to predict what tasks, and perhaps even what jobs, people will be good at in the future. For both kinds of tests, the stakes can be high. People’s performances can hugely affect their lives.

HÌNH 8.38 Alfred Binet

Binet khởi đầu cho tiếp cận tâm trắc để đo lường trí thông minh

FIGURE 8.38 Alfred Binet
Binet launched the psychometric approach to assessing intelligence

Đo lường tâm trắc trí trí thông minh xuất hiện chỉ hơn một thế kỷ trước. Được sự khuyến khích của chính phủ Pháp, nhà tâm lý học Alfred Binet đã phát triển một phương pháp đánh giá trí thông minh (HÌNH 8.38). Mục tiêu của Binet là xác định những trẻ em trong hệ thống trường học của Pháp cần được quan tâm hơn và cần hướng dẫn đặc biệt. Ông đề xuất rằng trí thông minh được hiểu đúng nhất là tập hợp các quá trình tinh thần cấp cao. Theo đó, với sự giúp đỡ của trợ lý Théodore Simon, Binet đã phát triển một bài kiểm tra để đo lường vốn từ vựng, trí nhớ, kỹ năng với các con số và các khả năng trí tuệ khác của từng đứa trẻ. Kết quả là Thang đo trí thông minh Binet-Simon. Một giả định cơ bản của bài kiểm tra là mỗi trẻ có thể tình cờ làm tốt hơn một số phần, nhưng kết quả bình quân sẽ cho biết mức độ thông minh tổng thể. Thật vậy, Binet nhận thấy rằng điểm số trong các bài kiểm tra của ông tương thích với niềm tin của giáo viên về khả năng và điểm của trẻ.

The psychometric measurement of intelligence began just over a century ago. At the encouragement of the French government, the psychologist Alfred Binet developed a method of assessing intelligence (FIGURE 8.38). Binet’s goal was to identify children in the French school system who needed extra attention and special instruction. He proposed that intelligence is best understood as a collection of high-level mental processes. Accordingly, with the help of his assistant Théodore Simon, Binet developed a test for measuring each child’s vocabulary, memory, skill with numbers, and other mental abilities. The result was the Binet-Simon Intelligence Scale. One assumption underlying the test was that each child might do better on some components by chance, but how the child performed on average across the different components would indicate his or her overall level of intelligence. Indeed, Binet found that scores on his tests were consistent with teachers’ beliefs about children’s abilities and with the children’s grades.

Năm 1919, nhà tâm lý học Lewis Terman, tại Đại học Stanford, đã sửa đổi bài kiểm tra Binet-Simon và thiết lập điểm số tiêu chuẩn cho trẻ em Mỹ (điểm trung bình cho từng độ tuổi). Bài kiểm tra này — Bản sửa đổi của Thang đo Binet-Simon của Stanford, thường được gọi là Thang đo Stanford-Binet — hiện vẫn là bài kiểm tra được sử dụng rộng rãi nhất cho trẻ em ở Mỹ. Năm 2003, bài test này đã được sửa đổi lần thứ năm.

In 1919, the psychologist Lewis Terman, at Stanford University, modified the Binet-Simon test and established normative scores for American children (average scores for each age). This test—the Stanford Revision of the Binet-Simon Scale, known colloquially as the Stanford-Binet—remains the most widely used test for children in the United States. In 2003, it was revised for the fifth time.

Năm 1939, nhà tâm lý học David Wechsler đã phát triển một bài kiểm tra trí thông minh cho người lớn. Không chỉ Stanford-Binet không phù hợp với người lớn mà Wechsler còn không hài lòng với nhiều đặc điểm khác nhau của thang đo Stanford-Binet, bao gồm việc dựa vào thông tin ngôn ngữ và đánh giá trí thông minh bằng một điểm số duy nhất. Thang đo trí thông minh người lớn Wechsler (WAIS) – phiên bản mới nhất là WAIS-IV, phát hành năm 2008 – có hai phần. Mỗi phần bao gồm một số nhiệm vụ có điểm số riêng biệt. Phần ngôn ngữ đo lường các khía cạnh như khả năng hiểu (“Tại sao mọi người mua bảo hiểm nhà?”), Từ vựng (“Tham nhũng nghĩa là gì?”) Và kiến thức chung (“Ngày quốc khánh ở Hoa Kỳ là ngày nào?” ). Phần ngôn ngữ cũng bao gồm các bài kiểm tra về trí nhớ hoạt động, chẳng hạn như khả năng ghi nhớ ngắn hạn. Phần hiệu suất bao gồm các nhiệm vụ phi ngôn ngữ, chẳng hạn như sắp xếp các bức tranh theo thứ tự thích hợp, lắp ráp các bộ phận để tạo thành một vật thể hoàn chỉnh, xác định các đặc điểm còn thiếu của bức tranh và đo thời gian phản ứng (HÌNH 8.39).

In 1939, the psychologist David Wechsler developed an intelligence test for adults. Not only was the Stanford-Binet unsuitable for adults, but Wechsler was dissatisfied with various features of that scale, including its reliance on verbal information and its assessment of intelligence by a single score. The Wechsler Adult Intelligence Scale (WAIS)—the most current version being the WAIS-IV, released in 2008—has two parts. Each part consists of several tasks that provide separate scores. The verbal part measures aspects such as comprehension (“Why do people buy home insurance?”), vocabulary (“What does corrupt mean?”), and general knowledge (“What day of the year is Independence Day in the United States?”). It also includes tests of working memory, such as short-term memory capacity. The performance part involves nonverbal tasks, such as arranging pictures in proper order, assembling parts to make a whole object, identifying a picture’s missing features, and measures of reaction time (FIGURE 8.39).

HÌNH 8.39 Các Câu Kiểm Tra IQ Đo lường Năng lực

Phần năng lực của các bài kiểm tra IQ bao gồm các nhiệm vụ phi ngôn ngữ. Dưới đây là một số ví dụ tương tự như các mục được sử dụng trong WAIS III. (a) Sắp xếp hình ảnh: Những hình ảnh này kể một câu chuyện. Đặt chúng theo đúng thứ tự để kể thành câu chuyện. (b) Lắp ráp các mảnh: Nếu những mảnh này được ghép với nhau chính xác thì sẽ tạo nên một hình. Ghép lại nhanh nhất có thể. (c) Thay thế ký hiệu chữ-số: Sử dụng mã được cung cấp, điền vào thông tin còn thiếu trong hình.

FIGURE 8.39 IQ Test Items Measuring Performance

The performance part of IQ tests includes nonverbal tasks. Here are some examples similar to items used in the WAIS III. (a) Picture arrangement: These pictures tell a story. Put them in the right order to tell the story. (b) Object assembly: If these pieces are put together correctly, they make something. Put them together as fast as you can. (c) Digit-symbol substitution: Using the code provided, fill in the missing information in the test picture.

CHỈ SỐ THÔNG MINH IQ Binet nhận thấy rằng một số trẻ em dường như có tư duy giống như trẻ nhỏ hơn hoặc lớn hơn mình. Để đánh giá vị thế trí tuệ của một đứa trẻ so với các bạn cùng tuổi, Binet đã đưa ra khái niệm quan trọng về tuổi trí tuệ. Phép đo này được xác định bằng cách so sánh điểm kiểm tra của trẻ với điểm trung bình của các độ tuổi. Ví dụ, một trẻ 8 tuổi có thể đọc Shakespeare và làm phép tính có thể đạt điểm như một trẻ 16 tuổi. Trẻ 8 tuổi này sẽ có tuổi trí tuệ là 16.

INTELLIGENCE QUOTIENT Binet noticed that some children seem to think like children younger or older than themselves. To assess a child’s intellectual standing compared with the standing of same-age peers, Binet introduced the important concept of mental age. This measure is determined by comparing the child’s test score with the average score for children of each chronological age. For instance, an 8-year-old who is able to read Shakespeare and do calculus might score as well as an average 16-year-old. This 8-yearold would have a mental age of 16.

Chỉ số thông minh (IQ), được phát triển bởi nhà tâm lý học Wilhelm Stern, một phần dựa trên tuổi trí tuệ. Chỉ số IQ được tính bằng cách chia tuổi trí tuệ ước tính của một đứa trẻ cho tuổi sinh học của đứa trẻ và nhân kết quả với 100. Để tính chỉ số IQ của trẻ 8 tuổi với tuổi trí tuệ là 16, chúng ta tính 16/8 × 100. Kết quả là 200, một số điểm cực kỳ cao.

The intelligence quotient (IQ), developed by the psychologist Wilhelm Stern, is partly based on mental age. IQ is computed by dividing a child’s estimated mental age by the child’s chronological age and multiplying the result by 100. To calculate the IQ of the 8-year-old with a mental age of 16, we calculate 16/8 × 100. The result is 200, an extraordinarily high score.

Tuy nhiên, công thức sẽ bị phá vỡ khi sử dụng với người lớn, do đó chỉ số thông minh của người lớn được đo cách khác. Theo công thức chuẩn, một người 60 tuổi sẽ cần có số câu trả lời đúng gấp đôi so với người 30 tuổi để có cùng chỉ số IQ. Thay vì vậy, chỉ số IQ của người lớn được so với chỉ số trung bình của người lớn, chứ không phải so với người lớn ở các độ tuổi khác nhau. Ngày nay, chỉ số IQ trung bình là khoảng 100. Trên nhiều nhóm người, sự phân bố điểm số IQ tạo thành một đường cong hình chuông, hoặc phân phối chuẩn. Hầu hết mọi người đều gần với mức trung bình và ít người đạt điểm ở phần đuôi của phân phối. Chỉ số IQ của một người được xem xét trong khái niệm độ lệch chuẩn so với mức trung bình (HÌNH 8.40).

The formula breaks down when used with adults, however, so the IQs of adults are measured differently. According to the standard formula, a 60-year-old would need to get twice as many test items correct as a 30-year-old to have the same IQ. Instead, IQ in the adult range is measured in comparison with the average adult and not with adults at different ages. Today, the average IQ is set at 100. Across large groups of people, the distribution of IQ scores forms a bell curve, or normal distribution. Most people are close to the average, and fewer and fewer people score at the tails of the distribution. A person’s IQ is considered in terms of deviation from the average (FIGURE 8.40).

HÌNH 8.40 Phân bố điểm IQ

IQ là điểm số trong bài kiểm tra trí thông minh quy chuẩn. Nghĩa là, điểm của một người có liên quan đến điểm của số lượng lớn những người đã làm bài kiểm tra. Khái niệm thống kê độ lệch chuẩn cho biết mức trung bình của mọi người là bao nhiêu. Độ lệch chuẩn đối với hầu hết các bài kiểm tra IQ là 15. Trung bình là 100. Như được hiển thị trong đường cong hình chuông này, khoảng 68 phần trăm mọi người nằm trong 1 độ lệch chuẩn của giá trị trung bình (đạt điểm từ 85 đến 115). Chỉ hơn 95 phần trăm mọi người nằm trong phạm vi 2 độ lệch chuẩn (đạt điểm từ 70 đến 130).

FIGURE 8.40 The Distribution of IQ Scores

IQ is a score on a normed test of intelligence. That is, one person’s score is relative to the scores of the large number of people who already took the test. And as discussed in Chapter 2, the statistical concept of standard deviation indicates how far people are from an average. The standard deviation for most IQ tests is 15. The average, or mean, is 100. As shown in this bell-shaped curve, approximately 68 percent of people fall within 1 standard deviation of the mean (they score from 85 to 115). Just over 95 percent of people fall within 2 standard deviations (they score from 70 to 130).

TÍNH HỢP LỆ CỦA KIỂM TRA Các bài kiểm tra trí thông minh có đáng tin cậy và hợp lệ không? Tức là các bài kiểm tra có ổn định theo thời gian không và có thực sự đo lường được những gì đã tuyên bố sẽ đo lường được không? Về độ tin cậy, có bằng chứng đáng kể cho thấy hiệu suất của một người trong bài kiểm tra trí thông minh tại một thời điểm này tương quan cao với hiệu suất của người đó tại một thời điểm khác (Matarazzo, Carmody & Jacobs, 1980).

VALIDITY OF TESTING Are intelligence tests reliable and valid? That is, are they stable over time, and do they really measure what they claim to measure? In terms of reliability, there is considerable evidence that a person’s performance on an intelligence test at one time corresponds highly to the person’s performance at another time (Matarazzo, Carmody, & Jacobs, 1980).

Để đánh giá tính hợp lệ của các bài kiểm tra, chúng ta cần xem xét định nghĩa của thông minh. Nếu thông minh có nghĩa là làm tốt ở trường hoặc trong một nghề nghiệp phức tạp, thì các bài kiểm tra trí thông minh hoạt động tốt một cách hợp lý: Bằng chứng tổng thể chỉ ra rằng IQ là một yếu tố dự báo khá tốt về kết quả của kiểu đời sống như vậy (kiểu cuộc sống mà chủ đạo là việc học ở trường, làm nghề phức tạp) (Gottfredson, 2004b).

To evaluate the validity of tests, we need to consider what it means to be intelligent. If the word means doing well at school or at a complex career, intelligence tests perform reasonably well: The overall evidence indicates that IQ is a fairly good predictor of such life outcomes (Gottfredson, 2004b).

Để khám phá tính hợp lệ của các bài kiểm tra trí thông minh, các nhà nghiên cứu đã phân tích dữ liệu từ 127 nghiên cứu, trong đó hơn 20.000 người tham gia đã thực hiện Bài kiểm tra loại suy Miller. Bài kiểm tra loại suy Miller được sử dụng rộng rãi trong tuyển sinh sau đại học cũng như tuyển dụng trong nhiều môi trường làm việc. Bài kiểm tra này yêu cầu người dự thi hoàn thành các phép loại suy, chẳng hạn như “Ngón tay đối với bàn tay cũng như ngón chân đối với ____.” Các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng điểm số trong Bài kiểm tra loại suy Miller không chỉ dự đoán kết quả học tập của sinh viên sau đại học mà còn cả năng suất, sự sáng tạo và hiệu suất công việc của cá nhân tại nơi làm việc (Kuncel, Hezlett, & Ones, 2004). Tương tự, những người làm nghề chuyên môn — chẳng hạn như luật sư, kế toán và kỹ sư — có xu hướng có chỉ số IQ cao, trong khi những người làm công việc khai mỏ, nông dân, thợ rừng và thợ cắt tóc có chỉ số IQ thấp hơn (Jencks, 1979; Schmidt & Hunter, 2004 ). Tất nhiên, những thống kê này đề cập đến mức trung bình, không phải cho từng cá nhân. Tuy nhiên, dữ liệu cho thấy mối tương quan vừa phải giữa chỉ số IQ và hiệu suất lao động, chỉ số IQ và thu nhập, và chỉ số IQ và các công việc đòi hỏi kỹ năng phức tạp. Mặc dù chỉ số IQ cao hơn không dự đoán ai sẽ là người lái xe tải giỏi hơn, nhưng sẽ dự đoán ai là lập trình viên giỏi hơn (Schmidt & Hunter, 2004).

To explore the validity of intelligence tests, researchers analyzed data from 127 studies in which more than 20,000 participants took the Miller Analogy Test. This test is widely used for admissions decisions into graduate school as well as for hiring decisions in many work settings. It requires test takers to complete analogies such as “Fingers are to hands as toes are to ____.” The researchers found that scores on the Miller Analogy Test predicted not only graduate students’ academic performances but also individuals’ productivity, creativity, and job performances in the workplace (Kuncel, Hezlett, & Ones, 2004). Similarly, people in professional careers—such as attorneys, accountants, and engineers—tend to have high IQs, while those who work as miners, farmers, lumberjacks, and barbers tend to have lower IQs (Jencks, 1979; Schmidt & Hunter, 2004). These statistics refer to averages, of course, not to individuals. Still, the data suggest modest correlations between IQ and work performance, IQ and income, and IQ and jobs requiring complex skills. Although higher IQ does not predict who will be a better truck driver, it predicts who will be a better computer programmer (Schmidt & Hunter, 2004).

Khi xem xét những phát hiện này, hãy lưu ý rằng điểm IQ thường chỉ dự đoán khoảng 25 phần trăm sự biến đổi về hiệu suất ở trường học hoặc nơi làm việc, vì vậy các yếu tố bổ sung khác sẽ góp phần vào thành công của cá nhân (Neisser et al., 1996). Vào cuối những năm 1800, nhà khoa học Sir Francis Galton tin rằng để trở nên nổi tiếng xuất sắc trong một lĩnh vực – nghĩa là trở thành một chuyên gia – không chỉ cần khả năng bẩm sinh mà còn phải có lòng nhiệt thành và sẵn sàng làm việc trong nhiều giờ (xem Ericsson, Krampe, & Tesch- Römer, 1993). Một nghiên cứu cho thấy sự tự chủ của trẻ em, được đánh giá qua báo cáo của giáo viên và phụ huynh cũng như qua các nhiệm vụ trong phòng thí nghiệm, dự báo điểm cuối cấp tốt hơn nhiều so với chỉ số IQ (Duckworth & Seligman, 2005).

When considering these findings, note that IQ scores typically predict only about 25 percent of the variation in performance at either school or work, so additional factors contribute to individuals’ success (Neisser et al., 1996). In the late 1800s, the scientist Sir Francis Galton believed that to become eminent in a field—that is, to become an expert—required not only innate ability but also zeal and willingness to work long hours (see Ericsson, Krampe, & Tesch-Römer, 1993). One study found that children’s self-control, assessed through teacher and parent reports as well as laboratory tasks, was much better than IQ in predicting final grades (Duckworth & Seligman, 2005).

Những người xuất thân danh giá có xu hướng có chỉ số IQ cao hơn. Họ cũng có xu hướng có những lợi thế khác. Các mối quan hệ gia đình, khả năng tiếp cận các cơ sở thực tập và việc được nhận vào các trường có thể đáp ứng nhu cầu có thể giúp quyết định thành công của họ. Nói cách khác, chỉ số IQ có thể quan trọng, nhưng nó chỉ là một trong những yếu tố góp phần tạo nên thành công trong lớp học, nơi làm việc và cuộc sống nói chung. Chúng ta sẽ xem xét tầm quan trọng của các đặc điểm môi trường một cách chi tiết hơn ở phần sau.

People from privileged backgrounds tend to have higher IQs. They also tend to have other advantages. Family contacts, access to internships, and acceptance to schools that can cater to their needs may help determine their success. In other words, IQ may be important, but it is only one of the factors that contribute to success in the classroom, the workplace, and life generally. We will consider the importance of other environmental features in greater detail shortly.

MỘT SỐ KHÁI NIỆM

tuổi trí tuệ Đánh giá vị thế trí tuệ của trẻ so với những trẻ cùng tuổi; được xác định bằng cách so sánh điểm kiểm tra của trẻ với điểm trung bình ở từng độ tuổi sinh học.

mental age An assessment of a child’s intellectual standing compared with that of same-age peers; determined by comparing the child’s test score with the average score for children of each chronological age.

chỉ số thông minh (IQ) Chỉ số thông minh được tính bằng cách chia tuổi trí tuệ ước tính của trẻ cho tuổi sinh học của trẻ, rồi nhân với 100.

intelligence quotient (IQ) An index of intelligence computed by dividing a child’s estimated mental age by the child’s chronological age, then multiplying this number by 100.

CÂU HỎI KIỂM TRA

H: Giả sử một đứa trẻ 2 tuổi có thể thể hiện ở mức độ của một đứa trẻ 4 tuổi trên Stanford-Binet. Tuổi trí tuệ và chỉ số IQ của trẻ 2 tuổi là bao nhiêu?

Q: Suppose a 2-year-old child is able to perform at a level of a 4-yearold on the Stanford-Binet. What is the 2-year-old’s mental age and IQ score?

Các phần khác trong lý thuyết về trí thông minh:

Source: Gazzaniga, M. S. (2015), Psychological Science (5ed). New York, N.Y: W.W. Norton & Company

Leave a Reply