Các mục tiêu và thời hạn

Goals and Deadlines

Một trong những cách mạnh mẽ nhất để thúc đẩy ai đó, bao gồm cả chính bản thân bạn, đó là đặt một mục tiêu. Những mục tiêu nào là tốt nhất?

  • Tôi sẽ làm việc để đạt điểm A trong mọi khóa học.
  • Tôi sẽ làm việc để ít nhất cũng đạt điểm C trung bình.
  • Tôi sẽ cố gắng hết sức mình.

Các nhà nghiên cứu nói rằng “cố gắng hết sức” thì giống như không có mục tiêu. Mặc dù nghe thì hay, bạn không bao giờ đạt được nó theo kế hoạch nên nó không tạo động lực cho các nhiệm vụ cần làm. Các mục tiêu hiệu quả nhất cần cụ thể, có độ khó và thực tế (Locke & Latham, 2002). Một mục tiêu cần cụ thể, bởi vì một mục tiêu mơ hồ không chỉ cho bạn biết là bạn cần phải làm gì. Nếu một công ty đặt một mục tiêu là “tăng đáng kể doanh số bán hàng,” mục tiêu này không có giá trị bởi vì nó không chỉ rõ là bao nhiêu hay bao lâu. Ngược lại, “Tăng doanh số bán hàng lên 10% trong hai năm” là mục tiêu đủ cụ thể và có hiệu quả. Những người làm việc tại các cơ quan chính phủ thường có những mục tiêu không rõ ràng, mâu thuẫn với nhau và thay đổi một chút sau mỗi cuộc bầu cử. Các nhân viên chính phủ mà không có một mục tiêu rõ ràng cho biết mức độ hài lòng công việc thấp (Jung, 2014). Một mục tiêu phải có độ khó, hoặc là nó sẽ không tạo được cảm hứng làm việc. Mục tiêu của một sinh viên là “ít nhất là đạt điểm C trung bình” là không có giá trị, trừ khi thành tích học tập trước đây của sinh viên đó ở dưới mức trung bình.

Một mục tiêu cũng phải thực tế. Đặc biệt đối với công việc nhóm, nếu một mục tiêu dường như vượt quá tầm với, nhiều thành viên trong nhóm sẽ bỏ cuộc (Curseu, Janssen, & Meeus, 2014). Nếu mục tiêu đối với một công ty hoặc một chi nhánh trong công ty tỏ ra cực kỳ khó, những người giám sát sẽ thấy lo lắng và thường xuyên trở nên thô lỗ hoặc lạm dụng đối với nhân viên của họ (Mawritz, Folger, & Latham, 2014). Những người làm việc mà luôn cố gắng đạt được những mục tiêu cực kỳ khó đưa ra những quyết định mạo hiểm và đôi lúc nguy hiểm, và có lúc bị cám dỗ để giao dịch thiếu trung thực (Schiebener, Wegmann, Pawlikowski, & Brand, 2014).

Để bất kỳ một mục tiêu trở nên hiệu quả, cần có một số điều kiện nhất định (Locke & Latham, 2002). Một là thực hiện mục tiêu một cách nghiêm túc, tốt nhất là cam kết thực hiện nó một cách công khai. Nếu bạn muốn đạt điểm cao hơn học kỳ tới, hãy nói với bạn bè bạn về điều đó. Ngoài ra bạn nên nhận được phản hồi thường xuyên về quá trình của mình. Nếu bạn nhắm đến tất cả các điểm A nhưng bạn bị điểm B trong một bài kiểm tra ở một khóa học, bạn biết rằng mình cần phải cố gắng hơn trong khóa học đó. Nếu mục tiêu của bạn là tăng lợi nhuận lên 10% và bạn biết rằng chúng đang ở 9%, bạn biết bạn cần phải làm việc chăm chỉ hơn một chút. Cuối cùng, bạn phải tin rằng phần thưởng sẽ xứng đáng với nỗ lực. Bạn có đủ quan tâm đến điểm số của mình để đánh đổi trong cuộc sống không? Bạn có tin sếp sẽ trả phần thưởng như đã hứa không? Một số nhân viên thì có, nhưng một số nhân viên thì cho rằng sếp của họ nói dối, những kẻ vô lại gian dối (Craig & Gustafson, 1998).

Một đặc điểm khác về các mục tiêu: Mục tiêu không phù hợp mang lại những hậu quả bất lợi. Thiết lập một mục tiêu đạt điểm A có thể khiến một số sinh viên chỉ theo đuổi những khóa học dễ dàng hoặc bỏ qua các khóa học thú vị mà họ không chắc rằng họ có thể đạt điểm A. Năm 1995, chính phủ Úc đặt một mục tiêu cho các giảng viên đại học là làm tăng tổng số các bài báo xuất bản. Kết quả là nhiều giáo sư xuất bản những bài báo ngắn trên các tạp chí ít người đọc, làm tăng số lượng nhưng chất lượng bị giảm (Butler, 2002). Nếu mục tiêu của một công ty là có thêm nhiều khách hàng mới, các nhân viên cần tập trung vào những khách hàng tiềm năng mới trong khi hầu như bỏ qua những khách hàng cũ.

Các mục tiêu thực tế – Realistic Goals

Nếu cho rằng các mục tiêu tốt nhất là có độ khó nhưng phải thực tế, vậy mục tiêu nào là thực tế? Hầu hết người Mỹ đánh giá bản thân khỏe mạnh hơn, thông minh hơn, năng động và giỏi hơn so với mức trung bình ở mọi mặt. Vì rất lạc quan, họ đánh giá thấp thời gian họ cần để mua sắm trong kỳ nghỉ, viết báo cáo, sửa sang lại nhà bếp và hầu hết mọi việc họ làm. Các công ty đánh giá thấp thời gian họ cần để đưa một sản phẩm ra thị trường, tái cấu trúc đội ngũ nhân viên hay hoàn thiện một tòa nhà (Dunning, Heath, & Suls, 2004). Các chính phủ đánh giá thấp thời gian và chi phí cho các dự án lớn. Nhà hát Sydney Opera ở Úc được kỳ vọng hoàn thiện năm 1963 , giá trị 7 tỉ đô la. Nhưng cuối cùng nó đã hoàn thiện vào năm 1973 với chi phí lên tới 102 triệu đô la (xem hình 11.3)

Các sinh viên năm cuối ở một trường đại học được yêu cầu đánh giá “tính thực tế” thời gian họ hoàn thành luận án danh dự cao cấp – một bài báo nghiên cứu lớn. Họ cũng được hỏi rằng họ sẽ có thể hoàn thành muộn bao lâu nếu mọi thứ diễn ra không theo ý muốn. Về trung bình, họ hoàn thành nghiên cứu muộn hơn một tuần so với những gì họ nói là do mọi thứ không theo ý muốn (Buehler, Griffin, & Ross, 1994). Thông điệp ở đây đó là hãy dành nhiều thời gian hơn bạn nghĩ– và bắt đầu sớm hơn bạn cho rằng là cần thiết. Các nhiệm vụ lớn luôn đòi hỏi nhiều công việc để làm hơn dự kiến.

Giá trị của deadline- The Value of Deadlines

Nếu bạn không có thời hạn để thực hiện, bạn có làm việc chăm chỉ để hoàn thành không? Khi bạn có một thời hạn, bạn thường có đợi đến trước thời hạn mới bắt đầu làm việc một cách nghiêm túc không? Ví dụ, bạn có đang đọc chương này bởi vì bạn phải kiểm tra bài vào ngày mai? Có ai từng hoàn thành mọi thứ nếu họ không có một thời hạn cần hoàn thành?

Sự trì hoãn (để việc hôm nay tới ngày mai) là một vấn đề nhiều sinh viên và người đi làm gặp phải. Dưới đây là một thí nghiệm minh họa tuyệt vời cho hiện tượng này.

Bằng chứng là gì? what’s the evidence?
Giá trị của deadline – The Value of Deadlines

Một giáo sư đặt ra một thời hạn cho một lớp học và để một lớp khác tự lựa chọn thời hạn để xem liệu những người có thời hạn cách đều nhau thì có làm tốt hơn những người có cơ hội trì hoãn  (Ariely & Wertenbroch, 2002). 

Giả thuyết. Các sinh viên được yêu cầu hoặc tự lựa chọn thời hạn phải sắp xếp công việc của mình sẽ làm tốt hơn những sinh viên chờ tới cuối học kỳ.

Hypothesis Students who are required, or who require themselves, to spread out their work will do better than those with an opportunity to wait until the end of the semester.

Phương pháp. Một giáo sư dạy hai học phần của cùng một khóa học. Các sinh viên không được phân chia ngẫu nhiên vào các học phần, nhưng các sinh viên ở cả hai học phần có thành tích học tập ngang nhau. Giáo sư yêu cầu một lớp rằng họ phải viết ba bài báo, bài đầu tiên đến hạn khi tới một phần ba học kỳ, bài thứ hai ở giữa kỳ và bài thứ ba là vào cuối kỳ. Lớp khác được cho tự chọn thời hạn. Họ có thể làm ba bài báo sau mỗi một phần ba học kỳ, cả ba bài vào cuối học kỳ hoặc bất cứ điều gì khác. Tuy nhiên, họ phải quyết định vào ngày thứ hai đi học và bất kỳ thời hạn nào họ chọn sẽ phải thực hiện. Nghĩa là, một bài báo mà nộp muộn sẽ bị phạt, mặc dù sinh viên có thể chọn một thời hạn muộn hơn. Vào cuối khóa học, giáo sư chấm điểm cho tất cả các bài được nộp.

Kết quả. Nếu bạn ở trong lớp mà có thể tự chọn thời hạn, bạn sẽ làm gì? 12 trong số 51 sinh viên chọn cả ba thời hạn là ngày cuối cùng của học kỳ. Có thể họ lập luận rằng họ cố hoàn thành bài sớm hơn nhưng họ sẽ có cơ hội thêm thời gian nếu cần. Tuy nhiên các sinh viên khác, cho rằng nếu họ đặt thời hạn vào cuối kỳ, họ sẽ khó cưỡng lại trước những cám dỗ trong tương lai, vì vậy họ đã đặt thời hạn sớm hơn. Khoảng cách giữa các thời hạn là vào một phần ba học kỳ, giữa kỳ hoặc cuối kỳ và những sinh viên khác đã thống nhất rằng, đặt thời hạn cho hai bài đầu tiên hơi muộn nhưng không phải là vào cuối học kỳ.

Về trung bình, các sinh viên trong học phần mà đặt thời hạn nhất định đạt điểm cao hơn những sinh viên được phép tự lựa chọn thời hạn của mình. Trong số những sinh viên được tự lựa chọn thời hạn, những sinh viên đặt thời hạn ở khoảng một phần ba học kỳ, giữa kỳ hoặc cuối kỳ đã làm tương tự như những sinh viên được giao thời hạn và tốt hơn những sinh viên đặt thời hạn của họ vào cuối học kỳ.

Diễn giải Nếu giáo sư chỉ nghiên cứu một lớp và sau đó cho họ tự đặt thời hạn, chúng tôi có thể không rút ra được kết luận rằng những người đặt ra thời hạn cho bản thân đã làm bài tốt nhất. Có thể nghĩa là thời hạn sớm sẽ giúp ích, nhưng cũng có nghĩa rằng những sinh viên giỏi hơn đặt thời hạn sớm hơn. Tuy nhiên, những sinh viên đến hạn nộp sớm làm tương tự những sinh viên có thời hạn được giao, trong khi những sinh viên nộp muộn thì làm bài kém hơn. Do đó, kết luận sau đó là thiết lập thời hạn mang lại hiệu quả. Nếu bạn được yêu cầu thực hiện công việc tại một thời điểm, bạn cần quản lý thời gian của mình để hoàn thành nó. Nếu thời hạn của bạn sắp hết, bạn phải đối mặt với cám dỗ mạnh mẽ để trì hoãn cho tới khi kết thúc.

Source: Kalat, J. W. (2017). Introduction to psychology (11ed). Boston, MA: Cengage Learning.

Leave a Reply